QĐND - Ngày 14-5-2014 vừa qua, Hồ sơ Châu bản triều Nguyễn của Việt Nam đã được UNESCO vinh danh là Di sản Tư liệu Chương trình Ký ức Thế giới khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Trong bộ châu bản trên đây, có 19 châu bản thể hiện rõ chủ quyền của các triều đại phong kiến Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; đó là việc hằng năm triều đình nhà Nguyễn cử người ra Hoàng Sa đồn trú, khảo sát, đo đạc, vẽ đồ bản, dựng bia mốc và khai thác sản vật…

 

Năm 1816, đích thân vua Gia Long đã cử đơn vị thủy quân đi thuyền tới quần đảo Hoàng Sa, cắm cờ trên đảo, khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạm của nước Đại Nam tại đây. Đặc biệt dưới hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị, nhà vua và các đại thần luôn thể hiện trách nhiệm cao trước tổ tiên và trăm họ về chủ quyền của Đại Nam (tên nước ta lúc đó) tại quần đảo Hoàng Sa. Châu bản của các triều vua này đã phản ánh nhiều vấn đề liên quan đến việc xác lập chủ quyền như: Sai người ra quần đảo Hoàng Sa để đo đạc, vẽ bản đồ, cắm mốc chủ quyền, quy định chế độ thưởng phạt cho quan binh được sai phái ra quần đảo Hoàng Sa. Vua Minh Mạng tự tay dùng bút phê vào từng tờ tấu của các bộ, ngành, thể hiện sự quan tâm trực tiếp, sâu sắc, có trách nhiệm và thường xuyên của người lãnh đạo cao nhất nước đối với vấn đề Hoàng Sa và chủ quyền đất nước. Bộ Công hằng năm phái binh thuyền đến Hoàng Sa, để quản lý cương hải nước nhà…

Sau đây là một số châu bản tiêu biểu về việc thực thi quyền chủ quyền của vua quan triều Nguyễn đối với quần đảo Hoàng Sa.

Một bản tâu liên quan đến Hoàng Sa có châu phê của vua Bảo Đại.

 

1. Hai bản tấu của Thủ ngự Đà Nẵng ngày 27-6, năm Minh Mạng thứ 11 (1830): Thuyền buôn của tài phú Pháp Ê-đoa, thuyền Đô-ô-chi-ly, phái viên Lê Quang Quỳnh cùng thủy thủ đoàn, ngày 20 rời cảng Đà Nẵng đi Lữ - Tống (Lu-con) buôn bán. Giờ Dần, ngày 27, Ê-đoa và 11 thủy thủ đi trên chiếc sam bản lớn cập cảng nói rằng: Canh 2 đêm 21, ở phía tây Hoàng Sa (xứ Cát Vàng), thuyền đụng đá ngầm bị ngập nước. Thuyền trưởng và phái viên còn đi sau. Cảng đã phái thuyền đem theo nước uống đi cứu hộ, giờ Ngọ đã gặp và đưa họ về cảng (Châu bản Minh Mạng 43, trang 57, 58).

 

2. Tấu của Bộ Công ngày 13-7, năm Minh Mạng thứ 18 (1837): Lần đi Hoàng Sa này trở về, trừ bọn Kinh phái Thủy sư Suất đội Phạm Văn Biện, tỉnh phải hướng dẫn Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh, đà công Lưu Đức Trực khởi hành chậm trễ đã bị xử phạt. Nên chăng chiếu lệ thưởng tặng cho binh dân hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định đi theo, xin đợi Chỉ. (Châu bản Minh Mạng tập 57, trang 244).

3. Tờ dụ ngày 13 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 18 (1837): Trước có phái Thủy sư, Giám thành, binh dân hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định đi Hoàng Sa đo đạc, cắm mốc, vẽ họa đồ, trừ bọn Phạm Văn Biện gồm 4 tên can tội đã có Chỉ phạt trượng. Còn binh dân đi theo lặn lội biển cả cực khổ, thưởng mỗi tên binh định một tháng lương, dân phu mỗi tên 2 quan tiền. (Châu bản Minh Mạng tập 57, trang 245).

 

Một số châu bản về đội Hoàng Sa dưới triều Minh Mạng và Thiệu Trị.

4. Phúc tấu của Bộ Công ngày 12-2, năm Minh Mạng thứ 17 (1836): Châu phê (Vua phê): "Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4,5 thước, rộng 5 tấc, khắc sâu hàng chữ "Năm Bính Thân (Minh Mạng thứ 17), họ tên Cai đội Thủy quân phụng mệnh đi đo đạc, cắm mốc ở Hoàng Sa để lưu dấu". Đã phái Thủy quân Chánh độ trưởng Phạm Hữu Nhựt giờ Mão hôm qua đi Ô-thuyền rời Thuận An vào Quảng Ngãi quản suất việc vãng thám Hoàng Sa kỳ này. Bộ đã cho làm đủ số cột mốc gửi gấp vào Quảng Ngãi. Châu cải (Vua sửa lại): Báo gấp cho Quảng Ngãi thực thi ngay, giao cho tên ấy nhận biện". Châu phê: "Thuyền nào đi tới đâu, cắm mốc tới đó để lưu dấu". (Tập Châu bản Minh Mạng tập 55, trang 336).

 

5. Phúc tấu của Bộ Công ngày 26 tháng 1, Thiệu Trị thứ 5 (1845) phụng Sắc về việc đình hoãn vãng thám Hoàng Sa: Nay phúc tấu đợi Chỉ có nên vãng thám Hoàng Sa kỳ này hay không? Châu phê: "Đình hoãn". (Châu bản Thiệu Trị, tập 42, trang 83).

 

6. Tấu của Bộ Công ngày 21-6, năm Minh Mạng thứ 19 (1838) về việc thám sát và vẽ bản đồ ở Hoàng Sa. Bản tấu viết rằng: Những người được phái đi Hoàng Sa do Bộ Ty Đỗ Mậu Thưởng và Thị vệ Lê Trọng Ba dẫn đầu và hướng dẫn viên Vũ Văn Hùng. Ông Hùng cho biết, Hoàng Sa tất cả có 4 nơi cần khảo sát thì lần này đi được 3 nơi. Còn một nơi hơi xa ở phía Nam mà vì gió Nam đương mạnh, nên họ xin đến sang năm đi tiếp. Quần đào Hoàng Sa có 25 hòn cần khảo sát mà lần này đi tới được 12 hòn, còn 13 hòn chưa đi tới được. Lần này đoàn khảo sát vẽ được 4 bức bản đồ (3 bức vẽ riêng và 1 bức vẽ chung). Tấu của Bộ Công lần này do Thang Huy Thận phụng thảo và Hà Duy Phan và Lý Văn Phức phụng duyệt, còn cho biết các bản đồ vẽ lần này còn chưa rõ ràng và có 1 bản nhật ký chưa được tinh tường, Bộ Công sẽ cho vẽ lại tinh vi, sẽ tấu trình tiếp.

7. Tấu của Bộ Công ngày 28-12, Thiệu Trị thứ 7 (1847): Hàng năm, vào mùa xuân theo lệ phái binh thuyền vãng thám Hoàng Sa thuộc hải cương nước nhà cho thành thục đường đi lối lại. Năm 1845 có Chỉ đình hoãn kỳ vãng thám 1946. Vì công vụ bận rộn, năm nay cũng xin được đình hoãn. Châu phê: "Đình hoãn". (Châu bản Thiệu Trị, tập 51, trang 125).

 

Mộ Gió của Cai đội Phạm Quang Ánh (Ất Hợi-1815) ở Lý Sơn-Quảng Ngãi. Ảnh tư liệu

 

Ngoài châu bản đã trở thành Di sản Tư liệu của thế giới trên đây, các bộ chính sử của triều Nguyễn như: Đại Nam thực lục, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Khâm định Đại Nam hội diển sự lệ, Đại Nam nhất thống chí… cũng đều có những ghi chép cụ thể chứng minh việc xác lập và thực thi chủ quyền của triều Nguyễn đối với biển, đảo; trong đó có 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cụ thể:

 

1. Chỉ thị của Thái phó Tổng lý Quản binh dân. Tài liệu này hiện đang được lưu giữ tại nhà thờ họ Võ, phường An Vĩnh, nay là thôn Tây, xã Lý Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Dịch nghĩa như sau: Chỉ thị... Thái phó Tổng lý Quản binh dân chư vụ Thượng tướng công truyền kế hoạch: Sai hội đức hào. Cai đội Hoàng Sa luôn xem xét, đốc xuất trong đội cắm biển hiệu thủy quân, cưỡi bốn chiếc thuyền câu vượt biển thẳng đến Hoàng Sa cùng các sứ Cù lao ngoài biển, tìm nhặt đồ vàng, bạc, đồng và các thứ đại bác, tiểu bác, đồi mồi, vỏ hải ba, các vật quý đều chở về kinh, tập trung nộp theo lệ. Nếu ngạo mạn càn bậy không đến lại gian dối lấy bớt các vật quý hoặc sinh sự với dân làm muối, làm cá, đều sẽ có trị tội. Nay sai. Ngày 14-2, năm Thái Đức thứ 9 (1786).

 

2. Đơn của phường An Vĩnh xin tách rời khỏi xã An Vĩnh ngày 11-2, năm Gia Long thứ 3 (1804). Nội dung của văn bản này nói về việc dân phường An Vĩnh trên đảo Cù Lao Ré xin tách khỏi xã An Vĩnh trong đất liền thành một đơn vị hành chính độc lập. Tuy vậy, trong đơn này chứa đựng nhiều thông tin về đội Hoàng Sa và hoạt động của đội Hoàng Sa. Tài liệu này được lưu giữ tại nhà thờ họ Phạm Quang, xã Lý Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

 

3. Văn bản phát hiện ở làng Mỹ Lợi (huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế). Đây là văn bản ngày 19-9, năm Cảnh Hưng 20, xử lý vụ kiện giữa phường Mỹ Toàn (nay là làng Mỹ Lợi, xã Vinh Mỹ, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên-Huế) và phường An Bằng, xã Vĩnh An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên-Huế: Nguyên do vào năm Quý Hợi (1743), phường An Bằng buộc phường Mỹ Toàn đón chiếc thuyền đội Hoàng Sa của lái Tín ở chỗ giáp ranh, kéo về đến bờ sông. Qua vụ thuế tiết liệu năm Mậu Dần (1758), khoản của thuyền thủ Trương phường An Bằng lại bắt phường Mỹ Toàn cùng chịu, mỗi bên đem nộp tại chính điện. Đến nay, phường Mỹ Toàn thúc phường An Bằng cùng phường Mỹ Toàn đem nộp vỏ tàu, nhưng phường An Bằng cố ý không đem nộp vỏ tàu ấy, phường Mỹ Toàn bèn trình đơn lên. Vậy, giao cho phường Mỹ Toàn bắt phường An Bằng đền tiền ba quan. Nay phê như vậy.

 

Văn bản này cho thấy từ năm 1760, dưới thời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786) đã có đội Hoàng Sa chuyên trách quản lý và khai thác sản vật ở quần đảo Hoàng Sa. Bản gốc bằng chữ Hán được viết trên giấy dó.

 

4. Tờ lệnh của họ Đặng ở đảo Lý Sơn là Công lệnh của quan tỉnh Quảng Ngãi, ghi rõ ngày 15-4, năm Minh Mạng thứ 15 (1843), phái đội thuyền ba chiếc ra canh giữ đảo Hoàng Sa. Đây là tờ lệnh cấp đầu tiên cho ông Đặng Văn Siểm và ông Dương Văn Định, ghi rõ: Các phái viên và lính thủy đi trước để cùng thám sát các vùng của xứ Hoàng Sa. Xem xét và tuyển chọn trong tỉnh ba thuyền tốt cùng với các vật dụng được tu bổ vững chắc, lại chọn ra tên Võ Văn Hùng đã được cử đi từ năm trước và chọn thêm những dân phu ven biển thông thạo đường biển để sung làm thủy thủ trên thuyền... Cứ hạ tuần tháng ba thuận thời tiết mà đi…

 

Tờ lệnh gồm có bốn trang. Bản gốc còn nguyên vẹn nhất từ trước đến nay, mỗi trang dài 36cm, rộng 24cm. Tuy chỉ vỏn vẹn vài trang nhưng nó chứa đựng nhiều thông tin quý, nêu rõ danh tính, quê quán của từng binh thuyền vâng mệnh triều đình đi lính Hoàng Sa, không chỉ riêng ở huyện đảo Lý Sơn mà còn ở các vùng quê ven biển khác tại Quảng Ngãi.

 

5. Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 165 năm Minh Mạng thứ 17 (1836) ghi lại: Bộ Công tâu: Cương giới mặt biển ta có xứ Hoàng Sa là hiểm yếu. Trước kia đã phải vẽ bản đồ mà hình thế nó xa rộng, mới chỉ được một nơi cũng chưa rõ ràng. Hàng năm nên phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Xin từ nay trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng Giêng, chọn phái biền binh thủy quân và vệ Giám thành đáp một chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng Hai thì đến Quảng Ngãi, bắt hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng Hoàng Sa. Không cứ là đảo nào, bãi cát nào, khi thuyền đi đến, cũng xem xét xứ ấy, chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi và nước biển bốn bên xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, bình dị thế nào… phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ.

 

Lại xét ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào thuyền đi, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ ấy trông vào bờ bến, đối thẳng vào là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt nào, cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói rõ, đem về dâng trình (Theo bản dịch của Đại Nam thực lục, Quốc sử quán triều Nguyễn, tổ phiên dịch Viện Sử học phiên dịch, tập 1, NXB Giáo dục 2007, trang 164).

 

6. Mộc bản sách Đại Nam thực lục tiền biên, quyển 10 ghi chép về thời chúa Nguyễn Phúc Khoát rằng: Mùa thu, tháng 7, dân đội Hoàng Sa ở Quảng Ngãi đi thuyền ra đảo Hoàng Sa, gặp gió dạt vào hải phận Quỳnh Châu nước Thanh. Thống đốc Thanh hậu cấp cho rồi đưa về. Chúa sai viết thư cảm ơn. Ở ngoài biển, về xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi có hơn 130 bãi cát cách nhau hoặc đi một ngày đường, hoặc vài trống canh, kéo dài không biết mấy ngàn dặm, tục gọi là "Vạn lý Trường Sa". Trên bãi có giếng nước ngọt. Sản vật có hải sản, đồi mồi, ốc hoa, vích, ba ba...

 

Buổi quốc sơ khai đặt đội Hoàng Sa 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào. Hằng năm, đến tháng 3 thì đi thuyền ra, độ 3 đêm ngày thì đến bãi, tìm lượm hóa vật, đến tháng 8 thì về nộp. Lại có đội Bắc Hải, mộ người ở thôn Tứ Chánh thuộc Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào, sai đi thuyền nhỏ đến các xứ Bắc Hải, Côn Lôn để lượm hóa vật. Đội này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản (Theo bản dịch của Đại Nam thực lục, Quốc sử quán triều Nguyễn, tổ phiên dịch Viện Sử học phiên dịch, tập 4, NXB Giáo dục 2007, trang 867).

TẦM THƯ (tổng hợp)