QĐND - 9. Hơn chục lần ra Hoàng Sa

Ông Trương Văn Quảng sinh năm 1940 tại xã Minh Hương, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên; hiện nay ngụ tại khối Sơn Thủy, phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn-TP Đà Nẵng. Năm 1957, ông theo học ngành cơ khí tàu biển tại Trường Hải quân Nha Trang, sau đó trở thành nhân viên kỹ thuật cơ khí tàu chiến của hải quân Việt Nam cộng hòa. Thời gian này, chiến hạm của các ông nhiều lần ra tiếp tế, chuyển quân và tuần tiễu bảo vệ Hoàng Sa. Trong hồi ký “Ký ức về Hoàng Sa” viết ngày 20-10-2009 tại TP Đà Nẵng, ông Trương Văn Quảng kể:

Ông Trương Văn Quảng.

 “Năm 18 tuổi, tôi vào học ngành cơ khí tàu biển tại Trung tâm huấn luyện Hải quân ở Nha Trang. Tháng 2-1959, tôi tốt nghiệp và được chuyển về công tác trên chiến hạm HQ.400 thuộc Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam cộng hòa. Từ đó đến giữa năm 1961, tôi đã ra Hoàng Sa 10 lần, 5 lần trước là trên chiến hạm HQ.400 và 5 lần sau trên tàu tuần tiễu chiến thuật. Giữa năm 1961 đến cuối năm 1962, tôi được đi thực tập tại Hoa Kỳ, sau đó trở về và được lệnh xuống nhận tàu hộ tống chiến hạm Đống Đa 07.

Từ đó đến năm 1969, tôi còn 3 lần ra khu vực Hoàng Sa, chủ yếu là để tiếp tế lương thực và nước uống cho một trung đội địa phương quân và nhân viên khí tượng thủy văn làm nhiệm vụ thường xuyên trên đảo. Ngoài ra, chúng tôi còn có nhiệm vụ tuần tiễu và yểm trợ cho các tàu khai thác phân chim của công ty bà Trần Lệ Xuân, vợ ông Ngô Đình Nhu. Mỗi lần ra Hoàng Sa, chúng tôi chỉ ở lại đảo trong vòng 24 giờ hoặc 36 giờ là phải quay về nhận công tác khác. Ngày ấy ở Hoàng Sa tuy được cung cấp thực phẩm và nước uống, nhưng cũng còn nhiều thiếu thốn khó khăn, nhất là các phương tiện thông tin liên lạc. Đôi lúc ngồi tâm sự với anh em làm nhiệm vụ trên đảo, chúng tôi cảm nhận được những gian khổ, thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần của anh em. Xa gia đình, xa thành phố, chịu bao thiếu thốn nhưng không làm mất đi ý chí, trách nhiệm của những người lính với quyết tâm bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.

Bút tích hồi ký của ông Trần Văn Sơn.

Những dịp được ra Hoàng Sa, điều lý thú nhất đối với chúng tôi là câu cá. Hoàng Sa thời đó có rất nhiều loại cá và rất dễ câu. Nơi đây khi nước thủy triều lên xuống nước chảy rất xiết, tốc độ 60-70km/h. Ngồi trên boong tàu câu cá phải thả cước câu 30-40m mới tới đáy. Có hôm chúng tôi câu được con cá mập rất lớn. Lúc cá cắn câu chúng tôi không biết làm sao kéo lên được, giằng kéo một lúc đến đứt cả tay đành cột vào tàu cho nó kéo đứt luôn. Ở trên đảo, ngoài câu cá còn bắt rùa biển, ốc tai tượng, nhất là rau câu biển, lấy hàng thúng để nấu đông ăn rất ngon. Khi hết nhiệm kỳ trở về nhà, có người mang vài bao cá khô về làm quà biếu bạn bè.

Theo tài liệu chúng tôi học ở Trường Hải quân thì vào đời chúa Nguyễn Hoàng đến nay hơn 400 năm, Việt Nam đã thực thi chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa. Khi chúa Nguyễn Phúc Ánh là vua Gia Long lên ngôi năm 1820, đã ra thị sát quần đảo Hoàng Sa. Thời Pháp thuộc đảo lớn có tên là Robert, sau đó Việt Nam gọi là đảo Cây Dừa, vì trên đảo có nhiều cây dừa lớn. Phân chim trên đảo nhiều vô kể, nằm sâu dưới lớp san hô và bọt biển. Ngoài ra còn có nhiều loại hải sản quý hiếm. Huyện đảo Hoàng Sa trước năm 1975 thuộc huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Thời Việt Nam cộng hòa, trú quân trên đảo chỉ có một trung đội địa phương quân và một tổ nhân viên khí tượng thủy văn làm việc theo định kỳ 3 tháng hoặc 6 tháng. Thời điểm xảy ra cuộc hải chiến năm 1974, tôi đang ở căn cứ yểm trợ Đà Nẵng, nhưng một số bạn bè của tôi tham chiến ngoài đó chạy được về Đà Nẵng kể lại: Trước tiên Trung Quốc cho tàu đánh cá xâm nhập vào đảo Hoàng Sa của chúng ta, buộc chúng ta phải can thiệp. Sau đó họ khiêu khích, đe dọa và nổ súng trước buộc chúng ta phải tự vệ chống trả. Lúc đó, ta chỉ có một hộ tống hạm HQ.10 nên phải xin tăng viện thêm 3 tàu chiến nữa. Phía Trung Quốc thì có rất nhiều tàu chiến bao vây đảo và tàu chúng ta. Khi chiến hạm HQ.10 vào gần đảo thì bị tàu Trung Quốc khiêu khích đâm thẳng vào nhưng tàu HQ.10 cố tránh né. Lần sau cùng, họ đâm ngang vào tàu ta làm thủng một bên hông rất lớn. Khi ấy, hạm trưởng là Thiếu tá Nguyễn Văn Thà không chịu nổi, đã ra lệnh khai hỏa trúng ngay tàu Trung Quốc, khiến hai bên nổ súng rất dữ dội. Tàu HQ.10 bị đánh chìm, hai chiếc còn lại là Trần Hưng Đạo và Trần Khánh Dư đều bị tổn thất nặng phải chạy về Đà Nẵng để sửa chữa. Phía Trung Quốc cũng bị đánh chìm một chiếc, một chiếc bị cháy trên đường tháo chạy và một chiếc hư hại nặng phải chạy về.

Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa được tổ chức hằng năm ở Lý Sơn-Quảng Ngãi. Ảnh: Tào Bảng

Khi HQ.10 bị đánh đắm, Thiếu tá Hạm trưởng Nguyễn Văn Thà cảm tử chết theo tàu. Một số thủy thủ thoát ra bằng xuồng cao su, trên xuồng có một trung úy quyền hạm phó bị thương, lênh đênh 10 ngày trên biển, hết lương thực, nước uống, ông ấy đã chết, phải vứt xác xuống biển để cứu sống những người còn lại. Sau đó, anh em đã được một thương thuyền của Hà Lan vớt và đưa vào Quy Nhơn. Khi vớt lên tàu, có một thủy thủ kiệt sức và chết, còn lại phải đưa về Bệnh viện Hải quân Đà Nẵng tại Tiên Sa để chữa trị. Khoảng một tuần lễ sau, Bộ tư lệnh Hải quân ở Sài Gòn đã điều động 2 hải đội (mỗi hải đội có 15 đến 20 chiến hạm) ra tái chiếm Hoàng Sa nhưng bất thành, vì lực lượng của ta không đủ sức chống trả với hàng trăm tàu chiến và máy bay Trung Quốc bắn chặn. 

Bây giờ tôi đã già yếu, nhưng những lúc gặp mặt gia đình, tôi thường kể cho con cháu nghe về những ngày tôi phục vụ ở Hoàng Sa, để con cháu hiểu nơi đây là một phần xương thịt và linh hồn của Tổ quốc không thể quên lãng, dù Trung Quốc đang chiếm giữ trái phép”.

10. Vẫn sẵn sàng ra bảo vệ Hoàng Sa!

Ông Trần Văn Sơn sinh ngày 3-8-1949 tại phường Mỹ Khê, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng; hiện nay ngụ tại tổ 13, phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng. Trước năm 1973, ông Sơn tham gia lính địa phương quân của chế độ Việt Nam cộng hòa, thuộc tiểu khu Quảng Nam-Đà Nẵng. Đầu năm 1973, trung đội địa phương quân của ông Sơn được lệnh xuống chiến hạm Trần Khánh Dư của hải quân Việt Nam cộng hòa, ra bảo vệ Hoàng Sa. Trong bài viết ngày 15-4-2010 hồi tưởng lại những ngày công tác trên quần đảo Hoàng Sa, ông Trần Văn Sơn kể:

“Năm 1966, tôi là lính địa phương quân thuộc tiểu khu Quảng Nam-Đà Nẵng. Đơn vị tôi ra đảo Hoàng Sa là phiên thay quân lần thứ 51 vào ngày 27-1-1973. Trung đội tôi ra đảo Hoàng Sa lúc bấy giờ có 36 người, trung đội trưởng là Trung úy Đỗ Công Chương; Trung đội phó là Trung sĩ Nhất Thái Quân.

Chiến hạm HQ.400 của đơn vị ông Trương Văn Quảng đã nhiều lần ra Hoàng Sa. Ảnh tư liệu

 Lúc đặt chân đến đảo, tôi thấy trên đảo vẫn còn nhiều dấu tích chứng minh sự hiện diện lâu đời của ông cha ta: Đó là miếu thờ, cột mốc, những ngôi mộ của những người làm nhiệm vụ bảo vệ biển, đảo… Tôi thật sự khâm phục cha ông chúng ta, không thể hình dung được chỉ với phương tiện thô sơ mà cha ông chúng ta đã khám phá và khai thác vùng đất này từ hàng trăm năm trước. Lúc ấy, trong tôi dậy lên niềm tự hào cùng quyết tâm phải bảo vệ đảo, phải gìn giữ đảo để không hổ thẹn với những tiền nhân.

Chúng tôi thay phiên nhau trên vọng gác cả ngày lẫn đêm. Trên đảo có tất cả 4 vọng gác, mỗi vọng gác phân công một người canh, mỗi người canh 2 tiếng đồng hồ. Tổ gác của tôi có 6 người; gồm tôi và anh Phan Dữ, anh Nguyễn Thanh Xuân và anh Nguyễn Chanh, còn hai người nữa bây giờ tôi không nhớ tên. Lúc thời tiết tốt, có thể nhìn thấy 7 cụm đảo chung quanh. Trên đảo của chúng tôi còn có một cái giếng, một cái nhà của Nha Khí tượng, một nhà thờ dành cho người theo đạo công giáo làm lễ và một cái miếu cổ. Theo di ngôn của người đi trước, cái miếu đó thờ bà vợ của vua Gia Long, trong lúc chạy nạn ra chết rồi chôn ở đó, trên bia mộ đắp toàn bằng chữ Nôm. Vào ngày rằm, mồng một, chúng tôi thường ra miếu thắp hương cầu sự bình an lúc ở ngoài đảo cũng như khi trở về đất liền. Trên đảo có rất nhiều cây mà dân gian ta hay gọi là cây mộc sáp, cây cao nhất chỉ chừng 2,5m. Khi cây cao tới đó thì cây khô và chết, ở dưới gốc cây thì chồi non lại nứt ra thành cây mới. Chúng tôi thường bẻ những cành cây khô để làm củi nấu ăn.

Khi ra đảo, chúng tôi mang theo hạt giống rau muống, đậu xanh, me khô cùng gà, vịt và ba con heo. Bữa ăn hằng ngày tuy ở xa đất liền nhưng vẫn đầy đủ thức ăn, trên đảo cũng có rau sam, đảo trưởng thường dặn chúng tôi khi hái rau sam ăn không được nhổ gốc, để khỏi bị tuyệt chủng. Trên đảo có rất nhiều chuột nên khi gieo hạt xuống đất thì phải bảo quản cẩn thận. Thời tiết trên đảo rất khắc nghiệt, mưa nắng thất thường, nước ăn và uống thì nhờ nước mưa chứa trong bể anh em tự bảo quản và lọc để uống, còn nước giếng dùng để tắm và giặt giũ. Nước biển dâng cao thì nước giếng lại mặn, khi nước biển xuống thấp thì nước giếng mới dùng được.

Ở đảo, mỗi tháng có một cuộc “lửa trại” giữa trung đội lính với anh em Nha Khí tượng. Tôi còn nhớ trong đó có một ông chúng tôi thường gọi tên là chú Ba Sài Gòn. Mỗi khi chúng tôi câu được cá đem đến biếu ông, ông thường cho lại chúng tôi đường và thịt hộp. Sau khi chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ trở về đất liền thì lực lượng địa phương quân của tiểu khu Quảng Nam-Đà Nẵng còn có hai đợt ra Hoàng Sa thay quân nữa. Đến đầu năm 1974, tôi nghe tin Trung Quốc đã đánh chiếm đảo Hoàng Sa. Tin ấy khiến anh em trong đơn vị chúng tôi buồn ngẩn ngơ, nhất là những anh em đã từng trực tiếp tham gia bảo vệ đảo. Lúc ấy, dẫu vẫn biết sẽ có hy sinh mất mát khi ra Hoàng Sa, nhưng nếu có lệnh đi Hoàng Sa thì anh em vẫn sẵn sàng lên đường để bảo vệ đảo!”.

TẦM THƯ (lược trích)