Một lần, nhà thơ quân đội, Đại tá Phạm Ngọc Cảnh muốn làm một chuyến du hành bằng xe ôm từ thị xã Hà Tĩnh vào cảng Vũng Áng-Đèo Ngang và đền bà Bích Châu, để có thêm tư liệu cho bài ký “Nắng nhuộm chân đèo” của anh. Tôi tình nguyện làm tài xế cho anh suốt cung đường ấy, cả đi lẫn về. Quốc lộ 1A chạy qua đoạn bắc thị trấn Cẩm Xuyên, hai bên là những cánh đồng lúa ngút mắt. Phía tây, sát sườn đồi bên kia dòng sông Hội, nổi lên một khu tượng đài, dưới nắng ban mai chiếu thẳng hướng, phần chữ mạ đỏ lóe lên như một ngôi sao đỏ trên mũ người lính. Ngôi sao kiêu hãnh, lấp lánh trên thảm lúa rực vàng. Tôi khoe với nhà thơ:
- Đó là Đài tưởng niệm anh hùng lấp lỗ châu mai Phan Đình Giót.
- Cho tớ dừng lại một lát!
Nheo nheo đôi mắt nhìn ngắm, anh trầm ngâm:
- Cậu biết không? Hồi ở Điện Biên Phủ, mình đã gặp Phan Đình Giót trong chiến hào.
- Sao? Anh đã gặp Phan Đình Giót trước khi anh ấy hy sinh?
- Không nhưng đã gặp, đã biết, mà tớ còn là người mang lá thư, có lẽ là cuối cùng của anh Giót gửi cho vợ anh ấy về quê nữa!
Chúng tôi dừng chân trong một quán “dã chiến” của người dân ở phía Đông-Nam Vũng Áng. Một cơn gió lốc vần vũ, những đám mây đen trùm kín cả vùng cảng với những con tàu, mảnh thuyền chông chênh. Mấy anh em chúng tôi xuýt xoa chờ đợi món ghẹ khổng lồ với những chiếc càng to bự, dài dễ bằng hai gang tay người lớn, được nuôi dự trữ trong lồng sắt dưới biển. Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh chỉ sang phía bắc Vũng Áng:
- Cậu biết không, tớ đã từng ngủ bên Kỳ Lợi hồi còn là chú nhóc 14 tuổi.
- Anh ở thị xã, hồi nhỏ vào đây làm gì?
- Tớ là thiếu sinh quân chống Pháp, vào chi viện cho mặt trận Bình Trị Thiên. Nhưng tớ là “lính văn nghệ”, suốt cuộc đời quân ngũ chỉ ca hát, ngâm thơ, diễn kịch cho bộ đội, dân công, thanh niên xung phong và nhân dân xem thôi…
Như chợt nhớ ra câu chuyện ban sáng, anh vỗ vai tôi:
- Tớ gặp ông Giót thật đấy, gặp hai lần hẳn hoi. Hồi đó Phạm Ngọc Cảnh vừa tròn 21 tuổi, ở đoàn văn nghệ xung kích thuộc Đại đoàn 312. Khi bộ đội ta bao vây Điện Biên Phủ, đoàn văn nghệ của tớ đi đến các đơn vị biểu diễn động viên bộ đội. Trước trận đánh đồn Him Lam 3 ngày, tớ gặp đơn vị của anh Phan Đình Giót đang đào chiến hào. Biết cùng đồng hương Hà Tĩnh, anh Giót hỏi tớ: “Hết chiến trường này chú có về quê không cho mình gửi lá thư?”. Tớ bảo: “Về thì không biết được nhưng em đi nhiều, gặp nhiều dân công và cán bộ trong mình ra, anh cứ viết thư rồi em gửi giúp”. Anh ấy bảo mình: “Chú đi, lúc nào trở lại ghé đây cho mình nhờ”. Vòng vo dưới chiến hào, hai ngày sau tớ mới quay lại chỗ anh ấy. Anh Giót đang đan vòng ngụy trang. Tớ hỏi: “Anh viết thư chưa?”. Anh bảo: “Mình không có giấy, bút”. Tớ đưa giấy và bút cho anh ấy mà mãi vẫn không thấy anh ấy viết, tớ giục lần nữa thì anh ấy cười: “Khổ! Mình mà viết được thì còn đợi chú làm gì. Chú giúp mình nhé!”. Rồi anh đọc cho tôi viết giúp, mộc mạc mấy dòng. Ngày hôm sau, Phan Đình Giót hy sinh anh dũng ở Him Lam…
- Thế còn bức thư?
- Tớ không trao bức thư ấy cho ai nữa. Nó nằm trong ba lô theo tớ mãi. Đến cuối năm 1955 tớ về Cẩm Quan đưa lại lá thư ấy cho vợ anh Giót.
Tôi ngồi lặng nhìn anh, vị đại tá đi qua hai cuộc kháng chiến, nổi tiếng về thơ, về kịch, về phim… Đôi mắt anh nhìn vời vợi ra phía biển đen đang nổi sóng. Trong ánh mắt ấy, tôi đọc được những kỷ niệm thiêng liêng của một thời đang trỗi lên thành từng đợt sóng trong lòng…
Bùi Quang Thanh