Đã lâu lắm rồi, anh Nguyễn Anh Tuân mới lại có dịp mời bạn chiến đấu cũ đến nhà “ôn cố tri tân”. Họ là những người bạn đồng ngũ tháng Chạp năm bảy mốt (1971) và là đồng hương Hà Bắc cũ. Hôm nay, anh mời đồng đội bữa “cơm lính tráng” nên chỉ có thịt ngan luộc, thịt gà kho và rau cỏ vườn nhà thôi. Chị Thái vợ anh và hai cô con gái lịch kịch chuẩn bị từ sớm. Anh Tuân thì hết ra ra lại vào vào, lúc lúc lại cầm điện thoại xem bạn từ Bắc Ninh lên đến đâu rồi. Mở tủ, lấy ra một vật hằng ngày vẫn dùng, nhưng hôm nay anh lại ngắm nghía kỹ lắm: Đó là chiếc bàn cạo râu của Mỹ, chiến lợi phẩm anh thu được trong một trận đánh ở chiến trường Quảng-Đà năm xưa.

Anh Tuân sinh năm 1951, ở xã Thường Thắng, huyện Hiệp Hòa-Bắc Giang. Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vào giai đoạn ác liệt nhất, Tuân nhiều lần xin nhập ngũ, nhưng xã chưa cho đi, bởi lẽ, cha anh vẫn đang tại ngũ ở chiến trường. Phải đến tháng Chạp năm bảy mốt, tròn hai mươi tuổi anh mới toại nguyện. Lúc ấy, Tuân đã cưới vợ được mấy tháng. Vợ anh là Thái-cô thôn nữ xóm bên, vừa xinh đẹp vừa nết na có tiếng. Nhập ngũ vào Tiểu đoàn 29-Đoàn 305 đặc công, huấn luyện ở Sơn Tây gần 7 tháng, chị Thái đạp xe lên thăm và ở lại với anh được vài hôm. Đến tháng Bảy năm 1972, anh cùng đơn vị đi B. Tuân vóc nhỏ, lúc nhập ngũ chỉ bốn nhăm cân, vào huấn luyện lên được vài cân, nhưng rất khỏe, dẻo dai. Trên chặng đường hành quân, nhiều anh em to khỏe bị sốt rét, ốm bệnh... phải rơi rớt ngang đường. Tuân thì không hề gì, đi khỏe, ăn ngủ tốt. Tuân được biên chế vào đơn vị K3-Tiểu đoàn 409 đặc công trực thuộc Quân khu V, chiến đấu trên địa bàn Quảng-Đà. Chiến sĩ đặc công Nguyễn Anh Tuân đã trực tiếp tham gia 14 trận đánh lớn nhỏ từ cuối năm 1972 cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng

Vợ chồng anh Tuân (đứng giữa) và những người đồng đội cũ trong ngày họp mặt.

Đất nước thống nhất nhưng Nguyễn Anh Tuân bị suy giảm thể lực nghiêm trọng, ngoài thương tật 12% anh còn bị nhiễm chất độc da cam, rụng hết tóc, người teo tóp, ra an dưỡng ở Bắc Ninh. Tính ra đã gần bốn năm kể từ ngày đi B, vì nhiệm vụ mà Tuân chưa hề thông tin gì về nhà. Dù biết, người vợ yêu quý vẫn khắc khoải đợi tin chồng, nhưng anh nghĩ, lúc này sức khỏe mình rất yếu, bốn năm chờ đợi rồi, giờ thêm mấy tháng nữa cũng chưa vội, miễn là mình còn sống trở về. Một hôm, lúc anh đang trong bộ quần áo bệnh nhân, thì bất ngờ có hai người, một già, một trẻ hỏi tìm mình. Anh bước ra, sững sờ khi gặp cha và cậu em trai. Ba cha con ôm nhau khóc, không nói được nên lời. Và rồi anh đã trở về trong vòng tay của người thân, nhất là người vợ yêu quý mà anh cảm thấy như là mắc lỗi với chị. Chị Thái bảo rằng, khi anh Tuân đi B, có thông tin anh Tuân đã bị địch bắt, rồi cả tin bị hy sinh, nhưng chị vẫn không tin, vẫn luôn nghĩ rằng anh còn sống, anh sẽ trở về lành lặn. Tâm niệm thế, nên ngày anh từ trại an dưỡng về, chị cảm giác như anh mới đi xa về, chứ không hề nghĩ anh đã từng vào sinh ra tử, đã từng bặt vô âm tín suốt mấy năm nay. Hai vợ chồng chung tay xây tổ ấm, rồi bốn đứa con (hai trai, hai gái) lần lượt ra đời. Nhưng cậu con trai út đến ngoài hai mươi tuổi vẫn chỉ nặng có ba chục cân, trí não không bình thường. Anh Tuân nhớ đến ngày ở chiến trường Quảng-Đà, không ít lần đơn vị anh đã ăn ở trên cánh rừng, khe suối có những chiếc bình do máy bay Mỹ rải xuống, xì khói màu vàng nhạt, mùi lạ. Mãi sau này, họ mới biết đó là chất độc da cam-điôxin gây bao mầm họa...

 

*

*      *

Gần trưa, nắng thu đã vàng rực, hai người bạn mới đến nhà anh Tuân. Vừa xuống xe, cả hai đã như muốn thoát nhanh ra khỏi chiếc mũ bảo hiểm để nhao đến với người đồng đội cũ. Mắt anh Tuân đỏ hoe khi nắm chặt tay hai người. Chị Thái thì đứng ngây ra nhìn họ, mắt ngấn lệ. Anh Tuân xúc động giới thiệu với cả nhà rằng, đấy là hai anh bạn cùng nhập ngũ một ngày, cùng đi B, rồi cùng chiến đấu trên chiến trường Quảng-Đà. Đó là anh Nguyễn Hồng Quả, quê ở Yên Phong-Bắc Ninh và anh Trịnh Huy Thuần, quê ở thành phố Bắc Ninh. Cả hai người đều cầm tinh con ngựa, kém anh Tuân 3 tuổi. Bữa cơm trưa hôm ấy kéo dài đến xế chiều. Ba người lính đặc công, sau ba chục năm có lẻ, mỗi người một hoàn cảnh, nhưng gặp nhau thì “chất lính” vẫn còn nguyên trong họ...

Khi nhập ngũ, anh Quả và anh Thuần mới 17 tuổi, thậm chí còn chưa có cả người yêu, nên họ nói đùa rằng ngộ nhỡ có hy sinh thì thiệt thòi hơn anh Tuân nhiều. Anh Quả khi rời quân ngũ, làm công tác ở địa phương, có thời gian làm tới Bí thư Đảng ủy xã, Huyện ủy viên, rồi lại rút về làm cán bộ thôn, xóm, nhưng cũng chưa được hưởng chế độ hưu trí. Anh Thuần và anh Tuân thì chỉ làm nông dân, nhưng lại “may mắn” hơn anh Quả vì cả hai đều đã có chế độ ưu đãi. Anh Thuần là thương binh hạng 4. Còn anh Tuân thì mãi gần đây cũng mới được giám định và có quyết định hưởng chế độ người nhiễm chất độc da cam...

Câu chuyện của ba người bạn lính cứ dài mãi, nhưng cuối cùng lại trở về cái trận đánh ngay trước hôm ký Hiệp định Pa-ri về Việt Nam. Đó là trận đánh vào quận lỵ Đức Dục ở Đại Lộc-QuảngNam, đêm 24 rạng ngày 25-1-1973. Tuân và Quả là hai chiến sĩ thuộc mũi chủ công của đơn vị K3 đánh vào sở chỉ huy địch. Tuân loắt choắt nhưng được giao mang vác quả mìn định hướng nặng tới 15 cân, giắt 8 quả thủ pháo, 2 quả lựu đạn US, 1 khẩu AK báng gấp. Quả thì được mang  hai quả bộc phá. Nhiệm vụ của mũi là bí mật mở cửa qua hàng rào rồi vào diệt lô cốt địch. Phương pháp dự kiến là dò gỡ mìn, chống bằng cọc để chui qua hàng rào, bảo đảm bí mật. Hàng rào dây thép gai của địch ở đây sắc như dao cạo, sơ ý là bị cứa rách thịt ngay. Lúc cơ động gần vào đến vị trí triển khai thì họ phát hiện hai tên lính gác. Kế bên là chiếc hào chống tăng rộng đến 3 đến 4m. Mũi phải dùng thang bắc qua hào. Bỗng nhiên, địch từ bên trong bắn ra dữ dội. Nghi-chiến sĩ cùng mũi với Tuân và Quả-vác thang bị trúng đạn. Anh Tiến mũi trưởng phải bịt mồm Nghi để không phát ra tiếng kêu rên. Nhưng có lẽ tất cả các mũi hướng đã bị lộ, nên có lệnh dùng mìn định hướng và bộc phá mở cửa. Khi cửa mở thông, Tuân và Quả lao lên áp sát lô cốt, dùng thủ pháo giật nụ xòe, rồi thả vào trong. Thủ pháo nổ ùng ục. Lúc sau, thấy bên trong lô cốt không có tiếng động, Tuân chui vào, trời tối quá, tay anh sờ từng tý một. Anh sờ thấy nhiều xác địch nằm, ngồi la liệt. Bỗng, anh sờ thấy một vật gì bằng thép, cầm lên thì đó là chiếc bàn cạo râu của thằng lính ngụy nào đó. Anh nhét vội vào túi, rồi rút ra. Địch lại bắn xối xả…

Sau này, khi đã về căn cứ, Tuân, Quả và Thuần mới biết rằng, trận đánh Đức Dục hôm đó ta bị lộ, nên tổn thất khá lớn. Dù biết rằng trong chiến đấu, không phải trận nào cũng giành thắng lợi, nhưng với ba người lính này, vẫn day dứt mãi cho đến hôm nay. Anh Thuần kể, sau giải phóng, lúc cùng đơn vị đi giải quyết công tác chính sách ở vùng Đức Dục, thăm lại nơi diễn ra trận đánh này, anh đau xót khi thắp hương bên những nấm mộ đồng đội được chôn cất thành hàng dài như những luống khoai...

Nghe chuyện của ba người lính, chị Thái lặng lẽ ngồi bên chồng, thỉnh thoảng mắt lại chớp chớp. So với biết bao chị em cùng thời có chồng, có người yêu ra trận, chị thật may mắn và hạnh phúc, dù ngày tháng chờ đợi dài đằng đẵng. Chị cũng xót đau cùng nỗi xót đau của chồng và hai người bạn về sự hy sinh của bao đồng đội. Bây giờ, anh Tuân và các anh ấy đã ngót lục tuần cả rồi, gặp lại nhau là quý lắm. Họ đang bàn tính chuyện vào thăm lại chiến trường xưa. Dù kinh tế còn eo hẹp, nhưng chị sẽ lo liệu và động viên để anh em họ được đi một chuyến…

Ghi chép của NGUYỄN HOÀNG SÁU