Phần lớn đồng bào Tây Nguyên đều biết chuyện A Giói-một quân nhân trở về sau bao năm tháng vào sinh ra tử trên chiến trường, thương bà con, sợ mình không hoàn thành trách nhiệm, đã kiên trì vận động người dân về lập làng mới, trồng lúa nước, cao su, mì... xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, đoàn kết xây dựng cuộc sống mới là ấn tượng nhất. Làng Le bây giờ đã trở thành điểm sáng về phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh trên tuyến biên giới bắc Tây Nguyên. A Giói là nhân vật điển hình để lại trong lòng bà con địa phương những tình cảm ấn tượng, rất sâu nặng.
Già làng BLong dẫn chúng tôi đến nhà A Giói. Tới nơi, già làng BLong thân mật vỗ vài chủ nhà, rồi giới thiệu: “Đến nay, tộc người Rơ Măm của mình có được cuộc sống ổn định, phát triển như bây giờ là nhờ sự quan tâm đầu tư rất lớn của Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương, nhưng công sức của A Giói cũng rất quan trọng. Nó như con trâu rừng không biết mệt, nói điều hay, làm nhiều việc tốt, nên nó nói dân làng nghe, nó làm dân làng làm theo. Trước đây, cuộc sống của người Rơ Măm còn nhiều khó khăn. Bà con chỉ quen chặt, đốt, chọc, tỉa... vì vậy cây lúa cho ít hạt, cây mì cho ít củ, nên thiếu ăn. Ngày xưa, một cặp vợ chồng có thể sinh từ 7 đến 9 đứa con. Do đông con, lại thiếu ăn, thiếu mặc, khí hậu khắc nghiệt, bệnh tật phát sinh, nên may lắm chỉ còn vài đứa sống sót. Trước năm 1975, cộng đồng người Rơ Măm chỉ có 159 người với 26 hộ, sống du canh du cư khắp các vùng đất dọc tuyến biên giới. Giờ đây, người Rơ Măm đã tăng lên hơn 400 khẩu với gần 100 hộ sống ở làng Le (Mô Rai) dọc theo Quốc lộ 14C đã đổi thay rất nhiều.
 |
Ông A Giói giới thiệu hình ảnh các hoạt động của dân làng.
|
Để có được những thành quả ban đầu ấy, A Giói đã suy nghĩ rất nhiều, nhất là từ khi anh rời quân ngũ, trở về với làng bản. Thấy cảnh những ngôi nhà tranh lụp xụp, những chòi lúa trên nương chưa đến vụ mà đã trống trơn... nhiều đêm A Giói trằn trọc không ngủ được vì thương bà con. Anh nghĩ, mình là Bộ đội Cụ Hồ, là cán bộ, đảng viên quân đội trở về, mà để cho bà con dân làng đói khổ, bệnh tật là có tội, phải làm việc gì đó để giúp người Rơ Măm thoát đói nghèo. Cuối cùng, A Giói quyết định vận động bà con “xuống núi” lập làng. Biết đây là một quyết định rất khó khăn, bởi từ xưa người Rơ Măm đã quen sống tự cung, tự cấp, dọc lưng chừng núi, nên A Giói vừa kiên trì vận động, vừa đưa gia đình mình cùng gia đình 3 đảng viên trong tộc người Rơ Măm rời khỏi ngọn núi Yang Sít xuống lập làng Le ở xã Mô Rai, huyện Sa Thầy (Kon Tum) bây giờ.
A Giói nhớ lời Bác dạy: “Đảng viên phải tiên phong đi trước, gương mẫu nói điều hay, làm việc tốt...”. Công việc đầu tiên khi xuống núi là làm nhà, khai hoang đất trồng lúa nước, trồng củ mì (sắn) để kiếm cái ăn. Gia đình mình no đủ, có cái ăn cái để, con cái được học cái chữ, ốm đau có thuốc chữa bệnh... thì mọi người chắc sẽ cùng anh về làng mới. Nói thì vậy nhưng làm thì khó lắm, không quen với địa hình, thời tiết “chân núi”, không biết trồng cây lúa vào thời gian nào cho phù hợp, nên buổi đầu “đội quân tiên phong” trồng gần 3 sào lúa, hiệu quả không đáng kể. Buồn cái bụng và cũng lo “sáng kiến” của mình bị thất bại, A Giói tìm đến Bộ đội Biên phòng tỉnh Kon Tum, sau này có thêm cán bộ, công nhân Đoàn Kinh tế-Quốc phòng 78 (Binh đoàn 15) nhờ giúp đỡ. Cuối cùng thì những ruộng lúa của anh cũng xanh tốt, những bông lúa trĩu hạt, những nương mì, bắp xanh tốt, cho mùa bội thu.
Như một nhạc trưởng, A Giói cùng với 3 đảng viên của chi bộ làng tiếp tục băng rừng, lội sông, suối về tận dưới xuôi mua gà, heo, bò giống về nuôi. Đất rộng, cỏ tốt, heo, gà, bò lớn như thổi, béo mập và phát triển rất nhanh. Mô hình “làng mới” của A Giói bước đầu thành công mà không thấy Yang phạt. A Hlới-người phản đối kịch liệt quyết định về làng Le của A Giói, đã thừa nhận cái sai của mình, rồi nói với mọi người: “Bác Hồ, Đảng, Nhà nước thương người Rơ Măm mình rồi! Phải xuống núi theo A Giói thôi”. Thế là cả tộc người Rơ Măm cùng kéo về làng Le dựng nhà, khai hoang đất trồng lúa, bắp, mì... Cái bụng A Giói như biết cười vì sung sướng. Ông nhiệt tình hướng dẫn bà con cách cuốc đất, lật cỏ, bón phân, gieo trồng, vừa mở kho chia hết số lúa, bắp thu được từ vụ mùa trước để cho dân làng làm giống, nhân giống... Đến nay, người dân làng Le đều biết trồng lúa nước, bắp lai, kinh tế ổn định, nhiều gia đình giàu lên có của ăn, của để dành. Hàng nghìn lượt bà con trên tuyến biên giới thuộc tỉnh Kon Tum, Gia Lai cũng về học tập, làm theo, lập làng, xây dựng cuộc sống mới xung quanh làng Le và dọc Quốc lộ 14C.
Biết bao mùa trăng, con nước, bóng núi ngả lưng theo ông mặt trời mọc rồi lặn bao lần. Hạt cuội trong ché sứ ngày một nhiều hơn. Lúa, bắp vẫn liên tiếp được mùa. Gà, heo, bò lớn nhanh và đẻ nhiều con giống. Người trong làng không có ai chết vì đói, rét và bệnh tật... Đến nay, làng Le đã có một chi bộ với 10 đảng viên. Người Rơ Măm đã khai hoang và trồng được 90ha cây mì, 80ha lúa nước, 70ha cây cao su tiểu điền cùng với hàng trăm con heo, bò, dê các loại. Trẻ em đến tuổi đều được đi học. Cháu A Hương đã vào đại học, 20 thanh niên đã tự nguyện vào làm công nhân ở Đoàn Kinh tế-Quốc phòng 78, hơn 97% số hộ có xe máy, 100% số hộ có ti vi. Tất cả các gia đình bà con Rơ Măm đều treo ảnh và thờ Bác Hồ với tấm lòng thành kính, như để tạ ơn Bác đã đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc hôm nay. Làng Le được công nhận là Làng văn hóa cấp tỉnh và thực sự đã trở thành điểm sáng về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh ở vùng biên giới bắc Tây Nguyên.
Nhìn những tấm bằng khen của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và UBND tỉnh Kon Tum tặng mình, ông A Giói thực sự xúc động. Ông tự nhắc nhở mình phải làm nhiều việc tốt hơn nữa cho bà con dân làng. Làng Le của người Rơ Măm đã hồi sinh từ câu chuyện cổ tích được viết nên từ một cựu chiến binh gương mẫu...
Bài và ảnh: LÊ QUANG HỒI