Trên công trường khu kinh tế Dung Quất. Ảnh: VNN

“Ngay từ khi thai nghén thành lập vào năm 1996, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đề xuất ý tưởng hình thành Dung Quất như là một Khu kinh tế tổng hợp. Do mô hình Khu kinh tế là một khái niệm mới tại Việt Nam vào lúc đó, việc hiện thực hóa mô hình này yêu cầu cần một quá trình nghiên cứu, tìm hiểu thực tiễn và tham khảo kinh nghiệm nước ngoài và nhất thiết phải được đề cập, quy định và điều chỉnh trong khung pháp lý của Việt Nam. Trong điều kiện như thế, sự phát triển của Dung Quất đã được quyết định theo mô hình pháp lý và khái niệm của một Khu công nghiệp, được điều chỉnh theo Nghị định 36/CP ngày 11/4/1997. Nhưng thực tế phát triển, những đặc thù mang tính chất của “Khu kinh tế” đã được thể hiện trong quyết định của Thủ tướng Chính phủ khi phê duyệt quy hoạch chung khu công nghiệp Dung Quất”.

Việc chuyển Dung Quất thành khu kinh tế không chỉ đơn giản là sự đổi tên mà thực sự là một bước pháp lý hóa các thể chế về cơ chế quản lý và chính sách phát triển trong điều kiện nền kinh tế hội nhập toàn cầu, đánh dấu những thay đổi căn bản về chất của Dung Quất.

Mô hình “khu trong khu” và vấn đề quản lý Nhà nước

Khu kinh tế Dung Quất bao gồm các khu đô thị và cụm dân cư, các khu công nghiệp (KCN), khu cảng nước sâu và đa năng, khu dịch vụ hậu cần cảng, khu bảo thuế, các khu du lịch - dịch vụ gần sân bay... Tất cả các “khu” này có quan hệ hữu cơ, tác động lẫn nhau, là động lực của nhau và là nền tảng cho sự phát triển bền vững.

So với các KCN, khu kinh tế với nhiều đối tượng quản lý khác nhau; bao gồm cả yếu tố doanh nghiệp lẫn các yếu tố khác như đô thị, du lịch, dân cư, cảng biển, tài nguyên... Do đó, không thể vận dụng đầy đủ Nghị định 36/CP cho việc quản lý của khu kinh tế. Về quản lý khu kinh tế, cơ bản phải vận hành trong hệ thống luật pháp hiện hành của quốc gia; đồng thời cần thiết ban hành quy định, các hành lang pháp lý riêng để quản lý các nhân tố khu trong khu, tương tự như thẩm quyền của cấp quản lý hành chính lãnh thổ.

Quản lý nhà nước tại khu kinh tế theo mô hình “khu trong khu” có thuận lợi: với mục tiêu trọng tâm hướng đến là phát triển công nghiệp – phát triển kinh tế, việc quản lý nhà nước tại khu kinh tế có điều kiện tốt để giải tỏa sức ép về xã hội và ở một mức độ cao hơn, nó có điều kiện để vận hành và vận dụng các tiện ích xã hội nội khu để phục vụ tốt nhất cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trong khu. Bộ máy quản lý này sẽ có những thẩm quyền đa ngành – đa lĩnh vực nhưng lại có tính chất chuyên biệt và chuyên môn hóa cao, do đó có điều kiện để nâng cao hiệu quả quản lý. Tuy nhiên, vấn đề này chưa có tiền lệ tại Việt Nam và đó sẽ là một bất cập nếu như không được nghiên cứu, bám sát thực tiễn để dự báo và đưa ra các giải pháp giải quyết một cách hợp lý.

Khu kinh tế Dung Quất với mô hình “khu trong khu” sẽ là một địa điểm rất phù hợp cho việc áp dụng những chính sách thử nghiệm như: tiếp tục thực hiện chủ trương phân cấp, ủy quyền quản lý từ Trung ương cho địa phương, sự mở cửa một số lĩnh vực kinh tế hiện nay đang hạn chế đầu tư nước ngoài, một số loại hình kinh doanh chưa từng được áp dụng tại Việt Nam hoặc các vấn đề về thủ tục đầu tư, chế độ tài chính, quản lý xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh và cư trú, thủ tục hải quan... nhằm mục tiêu cải cách nền hành chính và cải thiện mạnh môi trường đầu tư theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế. Khi tác động trở lại, những chính sách thử nghiệm này sẽ nhanh chóng hoàn thiện môi trường đầu tư và tăng tính hấp dẫn của khu kinh tế, đặc biệt đối với các nhà đầu tư nước ngoài.

Mô hình “khu trong khu” và tính chất liên kết vùng trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung

Với một không gian kinh tế có thể được xem là tương đối độc lập và có khả năng “phát triển khép kín”, nhưng khu kinh tế không thể tự tồn tại mà không cần đến một không gian kinh tế lớn hơn để hình thành các thị trường thiết yếu với những quan hệ kinh tế cần thiết. Sự phát triển của khu kinh tế Dung Quất cần những điều kiện như: Một thị trường liên kết có quy mô tương đối rộng; sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ tại chỗ; sự hình thành và phát triển cảng, sân bay, tuyến côngtennơ đường biển nội địa và quốc tế, khu trung chuyển hàng hóa của khu vực; sự phụ thuộc tương đối với 2 vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và phía Nam và sự tác động ảnh hưởng của các khu kinh tế trong vùng; nguồn nhân lực được đào tạo và đáp ứng ở mức cao.

Hiện nay, ở nước ta đang hình thành ngày càng nhiều những khu kinh tế. Mỗi khu kinh tế khi thành lập được Thủ tướng Chính phủ ban hành một quy chế riêng. Đó là điều hết sức cần thiết, nhưng quy chế cần giải quyết được 2 vấn đề cơ bản trong quản lý và phát triển là cơ chế quản lý theo hướng trao quyền mạnh mẽ cho cơ quan quản lý khu kinh tế và chính sách cần có sự ưu đãi vượt trội, trong đó, có một số chính sách thí điểm có tính chất thực nghiệm để khu kinh tế mới có thể thật sự trở thành động lực phát triển Vùng.

Cần tăng cường yếu tố liên kết vùng, trong đó mỗi khu kinh tế vừa là hạt nhân tăng trưởng kinh tế vùng, vừa liên kết, hỗ trợ và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Theo quy hoạch và định hướng phát triển, khu kinh tế Dung Quất có các ngành công nghiệp lọc dầu – hóa dầu – hóa chất, các ngành công nghiệp có quy mô lớn bao gồm: Công nghiệp cơ khí chế tạo và lắp ráp, đóng sửa tàu biển, luyện – cán thép...; do đó cần đưa vào quy hoạch ngành và vùng trong chiến lược phát triển của quốc gia; đồng thời trong thực tế cần có sự chỉ đạo triển khai thực hiện chiến lược này vào khu kinh tế Dung Quất nhằm khai thác lợi thế tốt nhất về điều kiện tự nhiên, điều kiện hạ tầng; để nâng cao hiệu quả trong đầu tư.

Đi đôi với chính sách đầu tư phát triển các khu đô thị mới, Nhà nước cần có chính sách đặc biệt ưu đãi về đất, về thuế, về đầu tư hỗ trợ hạ tầng kỹ thuật – xã hội và dịch vụ dùng chung, về vốn tín dụng ưu đãi dành riêng cho các dự án xây dựng chung cư và nhà ở cho công nhân, có như vậy, trong một thời gian nhất định mới có thể cải thiện đáng kể vấn đề này tại khu công nghiệp, khu kinh tế.

Trong điều kiện ngân sách Nhà nước không thể đáp ứng yêu cầu vốn đầu tư cho những công trình cần thiết, vì mỗi năm ngân sách cấp một vài trăm tỷ đồng (như khu kinh tế Dung Quất hiện nay), trong khi yêu cầu đầu tư phải vài ba ngàn tỷ đồng thì tốc độ phát triển sẽ chậm và không đáp ứng được những yêu cầu bức thiết của nhà đầu tư. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần sớm cho khu kinh tế một cơ chế tài chính để làm cơ sở huy động tổng lực các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Đặc biệt là cơ chế quản lý và cơ chế tài chính sẽ là hai yếu tố quyết định, tạo ra sự thúc đẩy để chính sách ưu đãi đầu tư thật sự được phát huy trong quá trình phát triển của các khu côngnghiệp, khu kinh tế, trong đó có khu kinh tế Dung Quất.

V.A (Theo Ban tuyên giáo TƯ)