Một số bất cập trong pháp luật về biển

Việt Nam có nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng sinh học biển cao và tiềm năng phát triển các ngành kinh tế biển như thủy sản, dầu khí, vận tải biển, du lịch, năng lượng tái tạo ngoài khơi... Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hiện trạng khai thác tài nguyên biển chưa thực sự hiệu quả, nhiều nơi còn bị lạm dụng, gây suy thoái môi trường, mất cân bằng sinh thái. Bên cạnh đó, hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý tài nguyên, môi trường biển vẫn tồn tại không ít bất cập, chồng chéo, thiếu đồng bộ, chưa theo kịp thực tiễn phát triển và yêu cầu hội nhập.

Trước thực trạng nêu trên, đồng chí Lê Minh Ngân, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho rằng, một hệ thống pháp luật hiện đại, thống nhất, đầy đủ và hiệu lực sẽ là công cụ quan trọng giúp thực hiện hiệu quả công tác quản lý nhà nước về tài nguyên, bảo vệ môi trường biển; đồng thời tạo hành lang pháp lý thông thoáng, ổn định, thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế biển.

 
 

Cán bộ, chiến sĩ Vùng Cảnh sát biển 2 (Cảnh sát biển Việt Nam) tặng quà và tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho ngư dân trên vùng biển Quảng Trị.

Tính đến nay, hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý, khai thác, bảo vệ tài nguyên, môi trường biển và hải đảo vẫn còn phân tán, chủ yếu nằm rải rác trong nhiều văn bản như: Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo (2015); Luật Biển Việt Nam (2012); Luật Bảo vệ môi trường (2020); Luật Thủy sản (2017); Luật Khoáng sản (2010); Luật Dầu khí (2022)... cùng hàng chục nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành. Điều này khiến công tác tổ chức thực thi còn bất cập, thiếu tính hệ thống, khó kiểm soát hiệu quả và việc huy động nguồn lực thực hiện.

Theo GS, TS Trần Đức Thạnh, nguyên Viện trưởng Viện Tài nguyên và Môi trường biển, chuyên gia cao cấp về chính sách biển, hiện chúng ta còn thiếu một đạo luật khung điều chỉnh tổng thể các hoạt động khai thác, sử dụng biển. Các luật hiện hành có sự giao thoa nhưng chưa rõ ràng về phân định trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý nhà nước; thiếu quy định cụ thể về điều phối không gian biển, đánh giá sức tải môi trường, kiểm soát ô nhiễm từ đất liền ra biển, cũng như thiếu các công cụ kinh tế trong quản lý tài nguyên biển. Trong thực tế, một số ngành kinh tế biển còn khai thác theo kiểu tận thu, chưa chú trọng bảo vệ môi trường và tài nguyên lâu dài. 

Cần hệ thống pháp lý thống nhất, hiệu lực cao

Được biết, năm 2025, Cục Biển và Hải đảo Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ trình Chính phủ hồ sơ đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, theo hướng nâng cao năng lực điều phối, giám sát, kiểm soát tổng hợp các hoạt động trên biển, bảo đảm thống nhất trong quản lý. Đáng chú ý, trong năm nay, việc triển khai lập Quy hoạch không gian biển quốc gia và Quy hoạch tài nguyên vùng bờ sẽ được đẩy nhanh, tập trung ưu tiên cho các khu vực có nhiều tiềm năng phát triển nhưng cũng đối mặt với thách thức môi trường nghiêm trọng như: Bình Thuận, Ninh Thuận, Quảng Ngãi, Bà Rịa-Vũng Tàu... Đây sẽ là căn cứ pháp lý quan trọng để thiết lập các hành lang sinh thái, vùng bảo vệ nghiêm ngặt và vùng phát triển kinh tế biển hiệu quả, bền vững.

PGS, TS Nguyễn Chu Hồi, nguyên Phó tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (nay là Cục Biển và Hải đảo Việt Nam) nhận định: “Việt Nam cần xây dựng một đạo luật về quản lý tổng hợp biển, theo hướng tích hợp đa ngành, đa mục tiêu và định hướng sinh thái. Ngoài ra, cần sớm ban hành Luật Biển và Hải đảo quốc gia sửa đổi, bổ sung, phản ánh đúng yêu cầu hội nhập, đồng thời khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên biển trong bối cảnh mới”. Song song với hoàn thiện pháp luật, nhiều ý kiến cũng đề xuất đẩy mạnh việc áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý biển như: Đánh thuế tài nguyên hợp lý, chi trả dịch vụ hệ sinh thái biển, khuyến khích doanh nghiệp tham gia phục hồi rạn san hô, rừng ngập mặn, xây dựng khu bảo tồn biển cộng đồng... Đồng thời, nâng cao năng lực điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học biển, hiện đại hóa hệ thống giám sát, cảnh báo môi trường biển để kịp thời ứng phó với thiên tai, biến đổi khí hậu.

Tàu kiểm ngư Việt Nam thực hiện nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát, xử lý các vấn đề về pháp luật trên vùng biển Việt Nam.

Kết hợp phát triển bền vững với bảo vệ chủ quyền biển, đảo

Trong bối cảnh tình hình Biển Đông còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về biển không chỉ phục vụ phát triển kinh tế mà còn là cơ sở pháp lý để đấu tranh, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia. Thông qua việc kiểm soát tốt các hoạt động trên biển, tăng cường hiện diện của lực lượng thực thi pháp luật, kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh, chúng ta sẽ tạo thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc trên biển.

Đồng chí Nguyễn Đức Toàn, Cục trưởng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam nhấn mạnh, việc tăng cường phối hợp giữa các cơ quan Trung ương và địa phương có biển trong công tác quản lý nhà nước đối với biển, đảo nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả, góp phần khai thác, sử dụng bền vững và bảo vệ chủ quyền biển, đảo; việc hoàn thiện tổng thể các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành sẽ giúp các lực lượng thực thi pháp luật trên biển có cơ sở pháp lý rõ ràng để xử lý vi phạm, ngăn chặn kịp thời các hành vi xâm phạm chủ quyền, khai thác trái phép, buôn lậu, gây ô nhiễm môi trường biển; đây là những công việc quan trọng, góp phần vào công tác bảo đảm quốc phòng, an ninh và giữ vững chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển.

Trong giai đoạn tới, việc hoàn thiện pháp luật về tài nguyên, môi trường biển cần gắn chặt với Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Kế hoạch hành động quốc gia về kinh tế tuần hoàn; các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường biển, chống biến đổi khí hậu, bảo tồn đa dạng sinh học. Đó cũng là cách để Việt Nam hội nhập sâu rộng, phát triển bền vững và khẳng định vai trò, vị thế là quốc gia mạnh về biển trong khu vực.

Bài và ảnh: NGUYỄN HỒNG SÁNG

* Mời bạn đọc vào chuyên mục Pháp luật xem các tin, bài liên quan.