Tôi nhận ra trong đó gương mặt quen thuộc của NSƯT Thúy Mỵ. Bà vừa hát vừa làm động tác biểu diễn như đang trên sân khấu, nhiệt thành và đầy cảm động. Sau nhiều bài hát hào hùng và trong trẻo, nữ nghệ sĩ tâm sự: “Thời chiến tranh, giữa các trận đánh, cô đã từng hát cho bộ đội, thương binh nghe. Hôm nay, cô còn chút sức lực, tâm trí, lại hát tặng các anh hùng liệt sĩ, là thủ trưởng, anh em bạn bè của cô mà giờ đây họ đang nằm kia kìa… Chỉ cần được hát cho những người mình trân trọng cũng là một niềm hạnh phúc!”, nói rồi nữ nghệ sĩ bật khóc...

leftcenterrightdel
CCB Thành cổ Quảng Trị gặp lại nhau sau 45 năm.  Ảnh: TRỌNG HẢI 

Bên gốc cây bồ đề huyền thoại, tôi được gặp Thiếu tướng Võ Sở, nguyên Phó tư lệnh về Chính trị Binh đoàn 12. Thiếu tướng Võ Sở kể cho tôi nghe nguồn gốc cây bồ đề đang tỏa tán lá rộng râm mát. Đấy là trong quá trình xây dựng Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn, khi việc dựng đài liệt sĩ gần hoàn thành, một hôm, từ trong khe đá ngay Đài tưởng niệm liệt sĩ bỗng nhiên mọc lên cây bồ đề nhỏ bé. Không ai cắt nghĩa được từ đâu giữa công trường đang thi công bộn bề vật liệu xây dựng, sao có thể mọc lên cây bồ đề được. Phải chăng gió, chim trời mang hạt bồ đề từ một ngôi chùa, vùng đất Phật nào đấy bay đến đây? Thiếu tướng Võ Sở, khi đó là một trong những cán bộ chỉ đạo việc xây dựng nghĩa trang, đã cùng anh em trong đơn vị quyết định giữ lại cây bồ đề, chăm nom, tưới tắm, vun trồng. Đến hôm nay, cây bồ đề vươn cao, cành lá sum sê, giữa trưa hè Quảng Trị nắng chang chang mà đứng dưới gốc cây thì mát rượi… Tôi lặng lẽ đi sau, nhìn tay ông mân mê lên thân cây bồ đề, rồi khẽ chạm vào chân đài liệt sĩ. Hiểu nỗi lòng của ông, tôi buột miệng:

“Cây bồ đề ơi!

Từ đâu đến cây che liệt sĩ?

Trong gió Lào khô khốc

Trong mưa bão mịt mù

Cây đứng tựa làng quê qua nghìn năm giặc giã

- Tôi đến từ ruộng vườn Việt Nam

Từ sân chùa, bến sông...

- Tôi đến từ bàn tay của Mẹ đang chờ con mòn mỏi tháng năm

Tôi ở cùng các anh các chị

Tôi hát ru, tôi trò chuyện, tâm tình

Tôi nối linh hồn liệt sĩ

Với thời gian đằng đẵng, muôn người…”

Nghe tôi đọc những câu thơ trên, Thiếu tướng Võ Sở lặng im giây lát. Tôi không biết gì hơn ngoài việc hỏi ông bằng một câu hỏi thông thường:

- Thủ trưởng có thể kể một vài kỷ niệm sâu sắc nhất với những người đồng đội đang nằm trong nghĩa trang này…?

Thiếu tướng Võ Sở nghẹn ngào:

- Giờ đây, tôi không thể nào kể hết được. Kỷ niệm nào cũng sâu sắc, cũng máu thịt. Đã có quá nhiều đồng đội, anh em hy sinh…

Và rồi vị tướng già khóc. Nước mắt của người từng kinh qua trận mạc, vào sinh ra tử, từng chôn cất nhiều đồng đội của mình hôm nay lại rơi, thêm lần nữa thấm vào đất Trường Sơn…

Tôi bước ra cầu treo Bến Tắt, trên Đường Hồ Chí Minh, sát cạnh Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn. Sông Bến Hải, Vĩ tuyến 17 chỗ này nhỏ hẹp, khoảng cách hai bờ chừng vài chục mét. Đứng bên này, ném viên đá là qua bờ bên kia. Vậy mà dân tộc Việt Nam đã phải làm cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà suốt hơn 20 năm, để “vượt qua” một con sông nhỏ hẹp này.

Nhìn về phía Tây Trường Sơn trùng điệp, màu xanh lam mờ và mây trắng bay lãng đãng. Ở đấy và ngay cả nơi tôi đang đứng, thời chiến tranh có thể là nơi trú quân, nơi giao chiến khốc liệt, nơi bom đạn cày đi xới lại. Nơi mỗi người chiến sĩ dường như không bao giờ đặt cho mình câu hỏi “Mình có còn sống đến ngày chiến thắng?”. Các CCB đều trả lời, họ luôn nghĩ, luôn tin chắc như đinh đóng cột rằng ngày chiến thắng, ngày sum họp mọi nhà chắc chắn sẽ đến. Và họ không bao giờ hình dung mình sẽ có mặt trong cái ngày trọng đại ấy. Có nghĩa là, họ đã thầm quy ước với chính bản thân mình rằng, cuộc sống của họ đã dành cho Tổ quốc. 

Tôi chợt giật mình, phía trước mặt, dòng Bến Hải vẫn chầm chậm chảy về Cửa Tùng. Tôi hình dung, nếu như ngày hôm nay là một ngày chiến tranh thì dòng nước dưới chân cầu Bến Tắt có chảy màu phù sa như thế? Và tiếng chim hót râm ran trong cánh rừng keo, rừng tràm, rừng cao su kia, có sinh động đến thế? Và đàn trẻ con trong làng ra tụ tập bên đường mòn Hồ Chí Minh, có hồn nhiên và tinh nghịch?

* * *

Nắng hạ khô cháy nhưng cỏ trong Thành cổ Quảng Trị vẫn xanh tươi, tràn trề sức sống. Sau phút gặp gỡ, hỏi han thân tình, tất cả CCB Hội Chiến sĩ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 như chủ ý đi tìm những vị trí, những nơi mà cách nay 45 năm họ từng chiến đấu. CCB Phan Văn Tam, quê huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, nguyên chiến sĩ thuộc Sư đoàn 320 cứ loay hoay tìm cái lô-cốt phía đông bắc Thành cổ. Đấy là nơi ông cùng đồng đội đã ẩn nấp, nổ súng chống trả các đợt tiến công của đối phương. Ngày 15-9-1972, ông bị thương, được chuyển ra ngoài. Ngày hôm sau hồi sức, vết thương băng bó tạm ổn, ông lại nằng nặc xin vào lại Thành cổ tiếp tục chiến đấu. Nhưng hôm đó, ngày 16-9-1972 cũng là ngày các đơn vị rút hết lực lượng trong Thành cổ. Ông Tam thẫn thờ bởi không thể mang theo được thi hài đồng đội - người bạn cùng làng... Giờ đây, ông đứng giữa bời bời cỏ lau, chắp tay cầm nắm hương cháy ngùn ngụt mà khấn:

- Thành ơi! Thành ơi! Mi nằm ở mô mi báo cho tau biết với. Tau đưa về! Bốn lăm năm rồi. Thành ơi! Hôm ni họp mặt Hội Chiến sĩ Thành cổ, anh em đồng đội về đông đủ hết. Mi có thấy không?

Ông Tam khấn nhiều lần. Vừa khấn ông vừa đi vòng quanh, rồi nói với mọi người:

- Tui nhớ trái pháo nổ, chỗ góc lô cốt đó. Tui còn kịp nhìn thấy rõ Thành bị tung lên. Tui ở xa hơn nên may chỉ bị thương. Còn Thành thì... Thành ơi! Thành ơi! Thành ơi, mi nằm ở mô?

Tôi đã bật khóc cùng ông Tam khi ông gọi tên đồng đội của ông đến lạc giọng như thế.

Theo CCB Sầm Ngọc Trâm, nguyên chiến sĩ quân y thuộc Tiểu đoàn 9, bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị, ngày ấy, hằng đêm, trung đội cứu thương của đơn vị ông chuyển hàng chục thương binh, tử sĩ vượt sông Thạch Hãn tập kết ra làng Nhan Biều. Ông không thể nhớ được trong khoảng thời gian đó, đơn vị đã chuyển bao nhiêu người. Ông Trâm kể lại, đêm đó, ông cõng một thương binh đã mê man bất tỉnh. Khi bắt đầu tiếp cận bờ sông Thạch Hãn thì anh ấy tỉnh lại, cố nói được mấy lời, ý rằng: Đồng chí ơi, bỏ tôi lại đây. Quay lại cõng người khác. Tôi không sống được. Đồng chí quay lại cứu người khác đi... Ông Trâm đặt anh ấy nằm trên bờ sông, chờ xuồng qua đón, rồi động viên: “Đồng chí cứ yên tâm, đồng chí sẽ được cứu sống rồi về quê mà lấy vợ, sinh con. Tôi đây này, cũng thế, chắc chắn tôi cũng sẽ sống, hòa bình về ta gặp lại nhau. Đồng chí tên gì, quê đâu?”... Thế nhưng, anh ấy đã ngừng thở...

Ông Trâm đi tìm vị trí căn hầm, nơi 45 năm trước ông đã đưa 7 chiến sĩ bị thương vào đó tạm trú ẩn. Trận đánh ông đã quên mất ngày tháng, Đại đội 3, Tiểu đoàn 8 hy sinh hơn một nửa. Khi ông quay trở lại căn hầm để chuyển 7 thương binh ra thì chỉ còn một cái hố pháo đen ngòm. Kể đến đó, ông Trâm lạc giọng, ánh mắt thẫn thờ:

- Cảnh vật thay đổi nhiều quá. Cỏ tốt quá, xanh quá. Có lẽ căn hầm ở chỗ kia, gần gốc cây xà cừ đó...

Thiếu tướng Cao Xuân Khuông, nguyên Phó tư lệnh Quân khu 4, trong chiến dịch Thành cổ Quảng Trị là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 8 bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị. Tôi nhận thấy có nhiều CCB đến chào ông, có người đứng nghiêm, giơ tay chào theo điều lệnh: "Báo cáo đồng chí Tiểu đoàn trưởng! Tôi, Đại đội trưởng đại đội...". Thiếu tướng Cao Xuân Khuông mỉm cười, ngăn lại: "Thôi, ông tướng! Có còn đánh nhau nữa đâu. Già rồi!". Một CCB vai vác ca-mê-ra quay hình ảnh cựu tiểu đoàn trưởng của mình rất lâu. Ông xoay qua xoay lại, lựa chọn góc hình. Thiếu tướng Cao Xuân Khuông bảo: "Cậu vẫn thế nhỉ? Ngày xưa chiến đấu là xạ thủ B40, cũng mang vác khẩu súng tương tự cái máy này".

Thiếu tướng Cao Xuân Khuông cho tôi hay, trong toàn bộ chiến dịch 81 ngày đêm chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị, quân số đơn vị ông lúc đầu là 350 người, qua chiến đấu bổ sung thêm 550 người, tổng gần 900 người. Đến ngày rút quân ra khỏi Thành cổ (16-9-1972) chỉ còn 50 tay súng! Vậy là 850 cán bộ, chiến sĩ đã thương vong... Trong đó, hơn một nửa hy sinh!

Thiếu tướng Võ Văn Chót, nguyên Phó tư lệnh Quân khu 4, tháng 5-1972, ông là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 3, Sư đoàn 324. Sở chỉ huy trung đoàn đặt tại điểm cao 367, ở phía Tây Quảng Trị. Ngay ngày đầu vào Thành cổ Quảng Trị, 150 đồng chí thuộc trung đoàn đã hy sinh. Tổn thất quá lớn đã tác động mạnh đến tinh thần bộ đội. Trên cương vị là trung đoàn trưởng, ông nhận thấy thế phòng ngự rất nguy hiểm, vì sau lưng là sông Thạch Hãn. Các trận đánh phòng ngự diễn ra chủ yếu trong thành với diện tích chưa đầy 3km2, ta và địch có khi cách nhau vài ba chục mét. Suốt chiến dịch, ông cùng Chính ủy Trung đoàn Nguyễn Đàm, nhiều đêm thức trắng bàn bạc cách đánh, tìm cách giữ vững trận địa phòng ngự và giảm thương vong. Lúc này, tại Pa-ri, thủ đô nước Pháp, mặt trận ngoại giao đang diễn ra cực kỳ gay cấn. “Chúng tôi thường nói với nhau: Nghị trường muốn thành công thì chiến trường phải có quả đấm mạnh. Chúng tôi vừa động viên bộ đội giữ vững vị trí trong suốt 81 ngày đêm, vừa nát óc tìm cách chỉ huy chặn địch” - Thiếu tướng Võ Văn Chót nói.

Tôi không thể nào chép ra đây hết được những câu chuyện mà các CCB, các vị tướng lĩnh, các chiến sĩ Thành cổ đã kể cho tôi nghe. Bao nhiêu ký ức, máu xương. Kỷ niệm nào cũng rưng rức cảm động. Tôi chỉ xin được kể thêm một câu chuyện: Ngày 10-9-1972, CCB Nguyễn Tứ Quý bị thương, mất cánh tay trái, được chuyển ra Bắc điều trị. Vết thương mới lên da non, ông liền xin rời trại thương binh, đi học Trường Đại học Tài chính-Kế toán. Ra trường, ông về làm đến kế toán trưởng tại một công ty ở Nghệ An. Sau đó, ông phát hiện lãnh đạo công ty có tiêu cực, tham nhũng, liền đứng lên đấu tranh. Ông không nói cho tôi biết cuộc đấu tranh đó có thắng lợi hay không, mà chỉ biết vào năm 2002, ông xin về hưu trước tuổi, ra làm tư vấn tài chính cho các doanh nghiệp ở huyện Quỳ Hợp. Ông mày mò, nghiên cứu và dồn tâm huyết động viên, hướng dẫn các bạn trẻ trong nghiệp vụ kế toán. Ông luôn dặn họ rằng làm nghề này, phẩm chất đầu tiên là phải trung thực, luôn trung thực, mãi mãi trung thực, không được một giây phút nào buông rời.

Tôi cùng thương binh Nguyễn Tứ Quý đi vào bãi cỏ xanh Thành cổ Quảng Trị, cố tìm đúng vị trí ông đã bị thương - nơi ông đã để lại đó một cánh tay.

- Đây này. Chỗ này là nơi tôi đã dùng B40 tiêu diệt một ổ hỏa lực thủy quân lục chiến địch! Còn chỗ nào quả pháo 105mm rơi xuống nổ làm tôi bị thương... Chỗ nào nhỉ?

Lá cỏ xanh, sắc, cứa vào da ram ráp. Trong mắt tôi, dường như cỏ xanh hơn, cứng hơn rất nhiều. Bởi chúng được mọc lên từ máu xương của biết bao liệt sĩ, của những người mà tôi đang được vinh dự đứng cạnh đây!

Bút ký của TRẦN HOÀI