Về những ý nghĩa và giá trị lịch sử lớn lao của văn kiện này, đã có không ít nhà nghiên cứu phân tích theo hướng chuyên sâu và đạt nhiều thành quả. Ở đây, chúng tôi chỉ tiếp cận văn bản trên bình diện văn hóa lịch sử, nhằm chỉ ra những điểm tiến bộ trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng như việc Bác đã vận dụng tài tình những đặc sắc của văn hóa Việt vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc của thời đại cách mạng.

Mở đầu lời kêu gọi, Bác nêu rõ mục đích của thi đua ái quốc là “Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”. Cùng với việc nêu rõ mục đích, Bác chỉ rõ cách làm là dựa vào “lực lượng của dân, tinh thần của dân, để gây hạnh phúc cho dân”. Như vậy, văn bản không hề sử dụng một từ dân chủ nào, nhưng thực sự đã mang tinh thần dân chủ sâu sắc, đem lại sức sống mới cho dân tộc và nhân dân Việt Nam, điều mà những triều đại phong kiến tồn tại suốt ngàn năm chưa bao giờ đạt tới. Đó là một phát ngôn thừa nhận quyền dân chủ thực sự của con người, giờ đây, trong bối cảnh lịch sử mới, mỗi người đều có quyền tự do dân chủ với những khát vọng hạnh phúc chính đáng, cần được đề cao. Hơn thế, tầm vóc của con người mới trong thời đại cách mạng còn được nâng cao lên khi mỗi cá nhân đều có thể đóng góp sức mình vào công cuộc xây dựng đất nước: “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sĩ tranh đấu trên mặt trận: Quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa”.

Khi Bác Hồ chỉ rõ mục đích của thi đua ái quốc là “để gây hạnh phúc cho dân” thì đồng thời đã khai sinh ra một hình mẫu nhân cách mới của thời đại: Hình mẫu người cán bộ cách mạng, khác biệt hoàn toàn với hình mẫu ông quan của chế độ phong kiến (đã trở thành quá khứ từ sau Cách mạng Tháng Tám). Nếu ông quan lấy lý tưởng phụng sự vương quyền, mà thực chất là bảo vệ chế độ tông tộc và quyền lợi thiết thân của một dòng họ, làm lý tưởng phấn đấu thì lý tưởng của người cán bộ cách mạng là phụng sự nhân dân, phụng sự dân tộc. 

Về các thành phần, tầng lớp nhân dân, gồm sĩ, nông, công, thương, binh, Bác đề cập tới tầng lớp “thương”. Đó chính là nỗ lực khắc phục giới hạn tư tưởng của nhà nước phong kiến vừa bị đánh đổ. Bởi nhà nước phong kiến dành sự khinh thị lớn nhất với thương nhân, vì họ là những người ít chịu sự kiềm thúc của quyền lực phong kiến, họ không định cư như nông dân mà giao du rộng rãi, lại có nhiều tiền của nên bị cho là dễ nảy sinh tham vọng quyền lực. Vì vậy, nhà nước phong kiến chủ trương ức thương, mà hậu quả là làm đất nước phát triển què quặt, trì trệ, nên dễ dàng thất bại trước cuộc đụng đầu lịch sử với thành tựu khoa học đến từ thế giới phương Tây. Việc nhận thấy vai trò lớn lao của tầng lớp thương nhân, khuyến khích họ cùng thực hiện phong trào thi đua yêu nước với các thành phần giai cấp khác chính là một nhãn quan tinh tế và nhạy bén của Bác Hồ trong công cuộc kiến thiết và bảo vệ đất nước. Đó là việc làm đoàn kết các thành phần giai cấp, huy động nguồn lực toàn dân tộc vào sự nghiệp cách mạng lớn lao.

Đã 70 năm trôi qua, những tư tưởng tiến bộ lớn lao và thâm viễn trong Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Bác vẫn còn nguyên giá trị.

Thạc sĩ PHAN TRẦN THANH TÚ