Do nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19, cuộc tọa đàm không thể tổ chức theo kế hoạch, song, những tham luận, ý kiến của các đại biểu đã lan truyền tình cảm, động lực, ý thức trách nhiệm trong các giới bạn đọc, góp phần nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.

Báo Quân đội nhân dân và Bộ tư lệnh TP Hồ Chí Minh trân trọng cảm ơn lãnh đạo Ban Tuyên giáo Trung ương, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị, Thành ủy TP Hồ Chí Minh, Bộ tư lệnh Quân khu 7; các tướng lĩnh, nhà khoa học, các chuyên gia, cán bộ quản lý một số cơ quan, đơn vị trong và ngoài quân đội... đã quan tâm chỉ đạo, động viên và gửi ý kiến tham luận tới ban tổ chức cuộc tọa đàm.

Thiếu tướng TRẦN NGỌC THỔ, nguyên Tham mưu trưởng Quân khu 7

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa         

Trong lịch sử lãnh đạo đất nước về quốc phòng, chuẩn bị cho chiến tranh chống xâm lược, Đảng ta luôn kế thừa những tinh hoa quốc phòng của dân tộc, lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho nhận thức và hành động. Đảng đã vận dụng luận điểm nổi tiếng của Lênin: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự bảo vệ” vào trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và trong điều kiện đất nước hòa bình. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn, kiên định về nguyên tắc nhưng hết sức linh hoạt, mềm dẻo về sách lược, thể hiện chính sách ngoại giao thận trọng, khôn khéo, triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù để phân hóa chúng, tranh thủ mọi điều kiện quốc tế thuận lợi để kháng chiến, thực hiện ý chí “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Đặc biệt, Đảng ta xây dựng LLVT nhân dân 3 thứ quân vững mạnh, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, hoàn thành thắng lợi cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

leftcenterrightdel
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc năm 1920. Ảnh tư liệu. 

Sinh thời, trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa chọn lọc những kinh nghiệm quân sự, kinh nghiệm đánh giặc giữ nước của tổ tiên ta và của thế giới. Người viết hàng loạt sách kinh nghiệm đánh du kích của các quốc gia tiến bộ để làm tài liệu huấn luyện bộ đội và du kích. Người chỉ ra rằng: “Dĩ nhu xử cương, dĩ bất biến ứng vạn biến” trong hoàn cảnh đất nước vừa giành được độc lập, nhiều kẻ thù lăm le nhảy vào và bao vây bên ngoài, bên trong gần 400.000 quân Pháp, Nhật, Tưởng Giới Thạch và quân Anh-Ấn, cùng bọn phản động Việt Cách, Việt Quốc, Quốc dân Đảng trỗi dậy chống phá. Theo Hồ Chí Minh, cái bất biến ở đây là độc lập dân tộc, phải giữ được độc lập dân tộc bằng mọi giá. Nhưng để đạt được mục tiêu cao quý đó thì phải áp dụng nhiều sách lược, phương pháp, biện pháp phù hợp có khi phải chịu lùi, chịu lép...

Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa là chủ động chuẩn bị các điều kiện để bảo vệ Tổ quốc ngay trong thời bình khi đất nước chưa nguy, lấy việc phòng ngừa từ trước, chuẩn bị từ trước làm chủ yếu, theo phương châm không dùng chiến tranh mà vẫn giữ vững, khỏe mạnh thắng lợi là thượng sách. Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa gồm bảo vệ Tổ quốc cả bên trong và bên ngoài lãnh thổ, chuẩn bị sẵn tiềm lực mọi mặt của đất nước xây dựng thế trận của từng địa phương, ngành nghề, lĩnh vực vững mạnh trong thế trận cả nước, đó là thế trận chiến tranh nhân dân Việt Nam được phát triển trên một tầm cao mới đủ sức giữ vững, đủ khả năng đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược, xung đột vũ trang, gây rối trong mọi hoàn cảnh. Giữ vững môi trường hòa bình, giữ vững ổn định chính trị là yếu tố quyết định tạo thuận lợi để đất nước phát triển kinh tế bền vững, tăng trưởng ổn định, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sự kết hợp các lĩnh vực của đời sống xã hội vào bảo vệ Tổ quốc sẽ bảo đảm nâng cao chất lượng, sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.

TS PHẠM ĐÀO THỊNH, Trưởng khoa Giáo dục Chính trị, Trường Đại học Sài Gòn

Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng 

Ngày 28-1-1941, sau 30 năm bôn ba, hoạt động ở nước ngoài, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Đại diện Quốc tế Cộng sản, Người triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương diễn ra từ ngày 10 đến 19-5-1941. Hội nghị đánh giá những chuyển biến mới của tình hình và đưa ra nhận định hết sức quan trọng về mối quan hệ dân tộc và giai cấp: Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn mãi chịu kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.

Mục đích của cách mạng Việt Nam là: Đánh đuổi Pháp-Nhật làm cho xứ Việt Nam độc lập. Cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: Phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một nhiệm vụ cần kíp “dân tộc giải phóng”. “Cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng". Hội nghị đã dứt khoát khẳng định sự chuyển hướng chiến lược: Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc cao hơn hết, là nhiệm vụ trước tiên, tạm gác nhiệm vụ cách mạng điền địa lại.

Cũng từ Hội nghị Trung ương 8 (5-1941), Nguyễn Ái Quốc đã chỉ đạo những nội dung như: Xây dựng Mặt trận Việt Minh nhằm tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân vào hàng ngũ các đoàn thể cứu quốc; chỉ đạo công tác vận động xây dựng lực lượng quần chúng cách mạng; chỉ đạo công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ, coi công tác cán bộ là gốc của sự nghiệp cách mạng; chỉ đạo xây dựng LLVT cách mạng, tích cực chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền; chỉ đạo công tác tuyên truyền dưới nhiều hình thức, đưa đường lối, chủ trương của Đảng đến với phong trào cách mạng; chỉ đạo xây dựng và kiện toàn hệ thống cơ sở đảng; chỉ đạo xây dựng quan hệ quốc tế.

Từ mùa xuân năm 1941, Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tiếp tục kiên trì mục đích cách mạng: Giành độc lập dân tộc. Cũng từ đó, Người đã chuẩn bị về mọi mặt, tiến tới phát động cao trào Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Tư tưởng về độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân của Hồ Chí Minh là chân lý tối thượng của dân tộc Việt Nam.

Đại tá DƯƠNG VĂN HÙNG, Trưởng Ban nghiên cứu Hậu phương chiến lược, Viện Chiến lược Quốc phòng

Tư duy quân sự về kháng chiến toàn dân, toàn diện

Tư duy quân sự Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn dân, toàn diện được hình thành và phát triển trong cả quá trình nghiên cứu lý luận, gắn với hoạt động thực tiễn về truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta.

Tư duy quân sự Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn dân, toàn diện xác định rõ mục đích của chiến tranh cách mạng nhằm mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; về xây dựng lực lượng cách mạng là khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công nông; phát huy sức mạnh tổng hợp, tập hợp lực lượng, thể hiện quyết tâm lớn, sáng tạo cao trong kháng chiến và tổ chức toàn dân đánh giặc, lấy LLVT làm nòng cốt; phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật đánh giặc tổng hợp trên tất cả các mặt trận. 

Theo tư duy Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn diện, trước hết bắt nguồn từ thực tế khách quan là chiến tranh tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội chứ không chỉ đơn thuần là quân sự. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chiến tranh ngày nay, đánh ở mặt sau, đánh về kinh tế, về chính trị, về tinh thần cũng quan trọng như đánh ngoài mặt trận. Phải biết phối hợp mọi phương pháp ấy mới có thể đi đến thắng lợi hoàn toàn”. Bản thân kẻ thù cũng tiến hành một cuộc chiến tranh tổng lực hòng tiêu diệt ý chí phản kháng của ta, nên để chiến thắng cuộc chiến tranh tổng lực ấy, theo Bác: “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sĩ tranh đấu trên mặt trận: Quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa”. 

Tư duy quân sự Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn dân, toàn diện là tư duy chiến lược toàn diện của một người có lòng yêu nước nhiệt thành, sâu sắc, động cơ cách mạng trong sáng kết hợp với trí tuệ uyên bác; tư duy luôn xuất phát từ thực tiễn, được rọi sáng từ phương pháp luận khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, tư duy đó đã đem lại thắng lợi, thành công cho cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ kháng chiến. Bằng phương pháp tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo, chỉ đạo thắng lợi cuộc chiến tranh nhân dân chưa hề có trong lịch sử quân sự thế giới.

Việc kế thừa và vận dụng yếu tố toàn dân, toàn diện trong tư duy quân sự của Hồ Chí Minh vào thực hiện nhiệm vụ cách mạng hiện nay ở nước ta có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thiếu tướng, PGS, TS ĐỖ HOÀNG NGÂN, Phó chính ủy Trường Sĩ quan Lục quân 2

Những sáng tạo lý luận của Người về đấu tranh giai cấp 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng trung thành, sáng tạo, bổ sung và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin phù hợp với điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, trong đó, những sáng tạo lý luận của Người về đấu tranh giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc là một dấu ấn nổi bật. Sự vận dụng và phát triển học thuyết Mác-Lênin về đấu tranh giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện ở những nội dung cơ bản, đó là: Sáng tạo trong xác định đường lối của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam; sáng tạo trong xác định đối tượng của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam; sáng tạo trong việc xác định lực lượng cách mạng...

Những luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đấu tranh giai cấp là những sáng tạo nổi bật trong hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam; là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Những tư tưởng đó là kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng, toàn dân ta; dẫn đường đưa cách mạng Việt Nam từng bước đến thắng lợi hoàn toàn.

Vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đấu tranh giai cấp, Đảng ta khẳng định: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta, đấu tranh giai cấp là tất yếu, bởi lẽ còn có sự đấu tranh rất gay gắt, quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, giữa cách mạng, tiến bộ với bảo thủ, trì trệ; đồng thời vẫn còn có những lực lượng đi ngược lại lợi ích của dân tộc, của nhân dân, của cách mạng, của Đảng... Tuy nhiên, đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay không còn nguyên nghĩa như thời kỳ đấu tranh giành chính quyền mà là cuộc đấu tranh để khẳng định “ai thắng ai” giữa hai con đường CNXH và tư bản chủ nghĩa.

Đấu tranh giai cấp trong điều kiện hiện nay ở nước ta thì đấu tranh tư tưởng, lý luận là một nội dung rất cơ bản; là đấu tranh giữa tư tưởng, lý luận vô sản với tư tưởng, lý luận phi vô sản. Cuộc đấu tranh này luôn diễn ra quyết liệt, phức tạp và liên quan trực tiếp đến mục tiêu, lý tưởng, sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước... Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam”... “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Thượng tá TRẦN VIẾT NĂNG, Trưởng ban Thanh niên Quân đội

Thanh niên quân đội nguyện mãi mãi học tập và làm theo gương Bác

Vận dụng sáng tạo học thuyết Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, bằng chính sự trải nghiệm của mình suốt 30 năm tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc nhận rõ vai trò và sức mạnh của thanh niên, của thế hệ trẻ đối với Tổ quốc và mạnh dạn giao nhiệm vụ, từng bước dìu dắt thanh niên tham gia đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người theo con đường cách mạng vô sản. Khi bắt đầu truyền bá tư tưởng cách mạng, Người đã chọn thanh niên là đối tượng đầu tiên, tổ chức các lớp huấn luyện chính trị đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng thanh niên để xây dựng đội ngũ cán bộ cốt cán đáp ứng yêu cầu cách mạng Việt Nam. Trong những bước chuẩn bị để thành lập Đảng cộng sản, Người đặc biệt chú ý đến tầng lớp thanh niên. Tổ chức tiền thân của Đảng mang tên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Tờ báo cách mạng đầu tiên Người sáng lập mang tên "Thanh niên" và sau này trong suốt sự nghiệp cách mạng, Người nhiều lần nhấn mạnh vai trò của thanh niên. Trong "Di chúc", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn kỹ càng mọi việc đối với Đảng và nhân dân, trong đó Bác dành một phần quan trọng nói về thanh niên, thể hiện tư tưởng, tình cảm, sự quan tâm đặc biệt của Bác Hồ đối với chủ nhân tương lai của đất nước, bởi theo Người: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”; “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.

Từ con đường ngày ấy Bác đi, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác và nhân dân ta đã lựa chọn, thấm nhuần lời Bác dạy: “Nhiệm vụ của thanh niên không phải là đòi hỏi nước nhà đã làm cho mình những gì, mà phải tự hỏi mình đã làm những gì cho ích nước nhà? Mình phải làm thế nào mà hy sinh, phấn đấu đến chừng nào?”, lớp lớp thế hệ thanh niên quân đội luôn tâm nguyện học tập và làm theo gương Bác, xung kích, sáng tạo, quyết thắng, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần khẳng định vị thế của lớp thanh niên thời đại Hồ Chí Minh.