Mới đây về quê đi phúng viếng bố một người bạn thân từ thuở thiếu thời, tôi không khỏi áy náy và băn khoăn về tục lệ ăn uống đông người ngay tại gia đình tang chủ. Làm lễ viếng xong, tôi xin phép anh trai trưởng người bạn ra về, nhưng anh vẫn một mực giữ tôi ở lại với lý do: nếu tôi không ăn cỗ, gia đình anh sẽ không cảm thấy yên lòng. Trong không khí tang thương và khói hương trầm nghi ngút, quả thật, tôi không còn tâm trí nào mà nghĩ đến chuyện ăn uống ở đây. Thấy tôi chần chừ, phân vân, bạn tôi bảo: "Thôi thì đất có lề, quê có thói, cậu đi công tác xa nay về phúng viếng thân phụ mình, theo tục lệ làng và để gia đình đỡ phải suy nghĩ, cậu cứ ngồi vào mâm ít phút, ăn uống, chút ít rồi về cũng được". Không nỡ chối từ, tôi đành ngồi vào mâm với mấy anh độ tuổi trung niên trong tâm trạng không thoải mái và thanh thản gì. Mâm cỗ của gia đình phục vụ khách cũng khá hậu hĩnh, ngoài các đĩa thức ăn như cỗ cưới còn có xôi đỗ và rượu trắng. Trong gia đình tang chủ lúc ấy có nhiều cảnh "đồng loạt" diễn ra: ngồi xung quanh quan tài là con cháu khóc lóc, kêu than rền rĩ, thảm thương; ngồi ngoài hiên nhà là "phường bát âm" đánh trống, thổi kèn não nề, buồn bã; chỗ này là cảnh người thân thích nội ngoại gia chủ đầu đội khăn tang đi lại tất bật bưng mâm, phục vụ ăn uống; còn chỗ kia lại là nơi quây quần ngồi ăn cỗ của những người đến phúng viếng... Trong cảnh nhiều nỗi niềm, tôi càng buồn thêm vì người khóc cứ khóc, người ăn cứ ăn, người uống cứ uống và người nói... cứ nói. Có không ít người đầu đội khăn trắng mà mặt mày đỏ lựng như gấc chín! Thay vì không khí trang nghiêm, tôn kính, buồn thương nơi tang lễ là một khung cảnh lam nham với bao tâm trạng "đa chiều" xuất hiện trên gương mặt mỗi người.
Sau lễ "cửu tuần" người quá cố, về quê tôi có dịp đến thăm nhà bạn tôi. Qua trò chuyện, bạn cho biết gia đình đã phải làm ngót 100 mâm cỗ... đám ma. Tôi hỏi sao lại làm nhiều thế thì bạn tôi bảo rằng, thực ra gia đình không muốn tổ chức ăn uống tốn kém như vậy, chỉ muốn tổ chức dăm bảy mâm cho những người thân và phụ giúp gia đình trong lễ tang, nhưng vì có "tổ to, họ lớn" và phải tuân theo "tục lệ làng", nên không thể "làm khác" được. Rồi bạn tôi than vãn: "Cũng có không ít gia đình muốn bỏ hẳn việc ăn uống trong đám tang, nhưng chẳng nhà nào dám "tiên phong" bỏ đầu tiên. Bởi ai cũng sợ "mang tiếng" với dân làng. Cái vòng luẩn quẩn "trả nợ miệng" không chỉ xuất hiện trong các đám hỉ, mà bây giờ nó cũng đã lan sang cả đám hiếu gây bao phiền phức và tốn kém cho các gia đình".
Vào những năm đầu 90 của thế kỷ trước, hưởng ứng phong trào xây dựng nếp sống văn hóa mới, người dân xã bạn tôi đã từng bỏ tục lệ ăn uống trong các đám tang. Tuy nhiên, mấy năm trở lại đây, không biết có phải do đời sống nhân dân được nâng lên hay vì một lý do nào khác mà hầu hết các gia đình có người mất đều tổ chức ăn uống cho những người đến phúng viếng. Sự tốn kém thời gian, lãng phí tiền bạc và gây phiền hà, rườm rà cho gia đình tang chủ từ việc tổ chức ăn uống này là điều ai cũng biết. Và một tục lệ không hay đã từng bị loại ra khỏi đời sống văn hóa của người dân, nay lại được khôi phục và tái diễn với tính chất càng ngày càng phức tạp hơn. Nếu để "cái lệ bất thành văn" này tiếp tục diễn ra sẽ là một cản trở cho phong trào xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư.
NGUYỄN VĂN HẢI