Tác động tiêu cực từ căng thẳng thương mại quốc tế
Phóng viên (PV): Ông nhận định như thế nào về những tác động trực tiếp của cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung đến các mặt của kinh tế thế giới?
GS, TSKH Nguyễn Mại: Căng thẳng thương mại Mỹ-Trung đang có những tác động rất lớn đến kinh tế thế giới. Năm 2019, tăng trưởng kinh tế thế giới nhiều khả năng sẽ chậm lại, không thể đạt được mức 3% như các dự báo trước đó. Không những thế, tăng trưởng trong năm 2020 có thể cũng sẽ chịu ảnh hưởng.
Cùng với đó, căng thẳng thương mại Mỹ-Trung Quốc cũng bắt đầu có tác động lây lan, tiêu cực đến các nền kinh tế lớn. Nhật Bản và Hàn Quốc, Mỹ và EU cũng đều đang có những xung đột về thương mại.
 |
GS, TSKH Nguyễn Mại. |
PV: Các căng thẳng này dường như đang có tác động tiêu cực tới kinh tế của cả Mỹ và Trung Quốc?
GS, TSKH Nguyễn Mại: Thực tế cho thấy, khi xảy ra căng thẳng thương mại thì không bên nào thắng cả. Kinh tế Mỹ hiện nay cũng đang bị giảm sút, tăng trưởng 3 quý đầu năm nay không đạt kỳ vọng, thị trường chứng khoán nhiều phiên lao đao, nông dân Mỹ cũng chịu tác động không nhỏ. Ông Donald Trump muốn các nhà đầu tư Mỹ dịch chuyển vốn về quê hương. Nhưng các nhà đầu tư Mỹ không dễ làm được việc đó.
Kinh tế Trung Quốc chịu ảnh hưởng rõ ràng, tăng trưởng chậm lại, thị trường lao đao, đồng tiền mất giá, phải bơm liên tục các gói giải cứu. Người ta cho rằng, những tác động này mới chỉ là ban đầu. Những tác động từ căng thẳng thương mại sẽ còn kéo dài sang các năm 2020, 2021.
“Liều thuốc” của kinh tế Việt Nam
PV: Vậy theo ông, các căng thẳng, xung đột về thương mại quốc tế có tác động như thế nào đến nền kinh tế Việt Nam?
GS, TSKH Nguyễn Mại: Căng thẳng thương mại quốc tế có tác động hai chiều tới Việt Nam, mang lại cho chúng ta cơ hội và cả thách thức. Trung Quốc và Mỹ là hai nền kinh tế lớn nhất thế giới, đều có quan hệ thương mại và là những thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam. Bởi vậy, căng thẳng thương mại giữa hai nước này chắc chắn không thể không ảnh hưởng tới Việt Nam.
Tuy nhiên, may mắn là qua hơn 400 ngày kể từ khi căng thẳng thương mại Mỹ-Trung bắt đầu nổ ra, cho đến bây giờ, Việt Nam vẫn chưa bị ảnh hưởng nhiều. 8 tháng năm nay, xuất-nhập khẩu của Việt Nam vẫn tăng trưởng 6-7%, ở mức có thể chấp nhận được; xuất khẩu sang Trung Quốc và Mỹ đều tăng.
PV: Vậy làm thế nào để Việt Nam ứng phó được với những tác động không mong muốn từ những căng thẳng thương mại trên thế giới?
GS, TSKH Nguyễn Mại: Chúng ta đang có những “liều thuốc” khác có thể giúp hạn chế tác động không mong muốn từ những căng thẳng thương mại. Đó là Việt Nam đã ký kết, tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới. Những FTA thế hệ mới ấy bao giờ cũng bắt đầu với thuế suất bằng 0 và Việt Nam được ưu tiên thực hiện chậm hơn. Nếu tận dụng được những cơ hội mới này, Việt Nam không chỉ hạn chế được tác động tiêu cực từ sự căng thẳng thương mại Mỹ-Trung mà còn có thể hạn chế được cả những tiêu cực từ các căng thẳng thương mại khác.
Nhiều dự án lớn đã dịch chuyển về Việt Nam
PV: Trước đây, nhiều người kỳ vọng tác động từ xung đột thương mại Mỹ-Trung sẽ giúp Việt Nam thu hút được nhiều vốn FDI hơn. Tuy nhiên, thực tế có vẻ không như vậy, vì thống kê những tháng đầu năm cho thấy, thu hút vốn FDI của nước ta có xu hướng chậm lại?
GS, TSKH Nguyễn Mại: Trước hết phải khẳng định sức hấp dẫn từ thị trường Trung Quốc. Số vốn đầu tư thực hiện của doanh nghiệp Mỹ vào Trung Quốc rất lớn, khoảng 256 tỷ USD, trong khi vốn đầu tư thực hiện của các nhà đầu tư Mỹ vào Việt Nam chỉ khoảng 5-6 tỷ USD. Việc dịch chuyển vốn khỏi Trung Quốc là điều không đơn giản.
Tuy nhiên cũng phải khẳng định rằng, căng thẳng thương mại Mỹ-Trung Quốc sẽ ảnh hưởng tới sự lựa chọn của các nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định đầu tư mới. May mắn là nhờ đẩy mạnh cải cách, nhờ vị thế của Việt Nam, nhờ sự ổn định về chính trị, nhờ sự tăng trưởng của thị trường gần 100 triệu dân đang hướng tới trở thành nước có thu nhập trung bình cao, với khoảng từ 15 đến 20 triệu dân có mức thu nhập ở mức trung lưu, mà Việt Nam đang được các nhà đầu tư nước ngoài coi là sự lựa chọn số 1 ở khu vực.
Thực tế cũng ghi nhận có sự chuyển dịch sản xuất tới các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Ví dụ, Samsung chuyển nhà máy sang Việt Nam, làm cho tỷ lệ sản xuất nội địa của nước ta tăng vọt. Hiện nay, có 29 công ty Việt Nam đóng vai trò là nhà cung cấp số 1 của Samsung. LG cũng tuyên bố sẽ chuyển hoạt động sản xuất về nhà máy tại Hải Phòng. Một số nhà sản xuất của Nhật Bản cũng lựa chọn dịch chuyển sang Việt Nam. Điều đó cho thấy, xu thế dịch chuyển sang Việt Nam là không thể cưỡng được.
Nhắc tới con số thống kê vốn FDI 8 tháng năm 2019 thì cần lưu ý 3 điểm: Vốn thực hiện vẫn tăng so với cùng kỳ năm trước; số vốn đăng ký mới giảm và số vốn đăng ký tăng thêm cũng giảm. Tuy nhiên, số vốn mua bán, sáp nhập (M&A) thì lại tăng thêm nhiều. Trước đây, khi Việt Nam chưa có tiềm năng M&A thì vốn FDI chủ yếu tập trung vào đầu tư dự án mới hoặc tăng thêm vốn đầu tư. Hiện nay, nhiều nhà đầu tư nước ngoài thay vì đầu tư dự án mới, xây dựng nhà xưởng mới, họ đầu tư cổ phần vào các doanh nghiệp hoặc mua bán, sáp nhập doanh nghiệp. Vì vậy, khi nói đến FDI, không nên chỉ quan tâm đến những dự án mới.
Tôi cho rằng, vốn FDI thực hiện chiếm khoảng 22-23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội như mục tiêu mà nước ta đưa ra là đủ, không nên quá ít và cũng không nên quá nhiều. Nếu quá ít thì không đủ vốn để phát triển, vì tiềm lực trong nước chỉ có thế. Nếu quá nhiều thì sẽ làm mất cơ hội đầu tư cho các doanh nghiệp trong nước.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!
CHIẾN THẮNG (thực hiện)