70% sản lượng giấy của Việt Nam sản xuất từ giấy phế liệu
Theo báo cáo của Bộ Công Thương, những năm qua ngành giấy đã có bước phát triển mạnh mẽ. Giai đoạn 2000-2007, ngành giấy có mức tăng trưởng bình quân 11% và giai đoạn 2007-2017 là 16%. Hiện nay, ngành giấy có hơn 300 DN, trong đó khoảng 20 DN quy mô sản xuất hơn 100.000 tấn/năm, còn lại là DN vừa và nhỏ. Các chuyên gia nhận định, Việt Nam hiện có tiềm năng lớn để phát triển ngành giấy vì mức tiêu thụ giấy bình quân đầu người của Việt Nam hiện là 44kg/người, nhu cầu sử dụng giấy bao bì cho sản phẩm tiêu thụ trong nước và xuất khẩu có mức tăng trưởng lớn, trong khi đó Việt Nam nhập khẩu gần 2 triệu tấn giấy/năm.
 |
Đưa nguyên liệu giấy đã qua sử dụng vào sản xuất tại Công ty TNHH Giấy Xuân Mai. Ảnh: THÀNH TRÍ
|
Trước nhu cầu sử dụng giấy tăng, việc sử dụng GPL là cần thiết, nhằm giảm chi phí do giá thành GPL thấp, giảm chi phí xử lý việc phát thải phế liệu ra môi trường. Tuy nhiên, hiện nguồn cung GPL trong nước không đáp ứng được nhu cầu sản xuất của các DN. Vì vậy, để duy trì sản xuất, các DN phải nhập khẩu số lượng lớn GPL. Theo ước tính, tỷ lệ thu gom giấy tại Việt Nam chưa tới 40%, dưới ngưỡng trung bình thế giới là 56% trước khi đưa vào phân loại và xử lý. Nhận định về thực tế này, ông Phan Chí Dũng, nguyên Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nhẹ, Bộ Công Thương chia sẻ: “70% sản lượng giấy của Việt Nam sản xuất từ nguyên liệu là GPL. Trong đó chỉ gần 40% được thu gom trong nước, còn lại phải nhập khẩu. Đối với các DN tái chế giấy chuyên nghiệp, có năng lực tái chế tốt, như các DN có vốn đầu tư nước ngoài, họ rất cần nguồn nguyên liệu giấy và rõ ràng nhập khẩu là giải pháp bắt buộc trong bối cảnh trong nước không đủ nguyên liệu sản xuất”.
Ông Hoàng Trung Sơn, Phó chủ tịch Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam cũng chỉ ra thực trạng thu gom giấy trong nước hiện nay là: Tỷ lệ thu hồi thấp; người dân chưa có thói quen phân loại rác tại nguồn; chưa có chính sách hỗ trợ đồng bộ khuyến khích việc thu hồi và tái chế giấy; chưa có tiêu chuẩn quốc gia về phân loại giấy thu hồi; việc thu gom chưa được tổ chức chặt chẽ, chưa có hệ thống nên hiệu quả còn thấp, chi phí cao; lượng thu gom chỉ đáp ứng chưa tới 50% nhu cầu sản xuất giấy tái chế.
Bảo đảm khâu kiểm tra tạp chất trong giấy phế liệu
Trao đổi về dự thảo sửa đổi Quyết định số 73/2014/QĐ-TTg quy định danh mục phế liệu được phép nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất, các chuyên gia cho rằng việc siết chặt quản lý phế liệu là cần thiết, khi có một số DN đã lợi dụng những kẽ hở trong quản lý nhập khẩu phế liệu cho sản xuất để nhập rác vào Việt Nam, gây ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, nhiều nhóm phế liệu giấy như giấy hỗn hợp vẫn là nguyên liệu sản xuất quan trọng của các ngành công nghiệp tái chế nhưng có khả năng bị đưa ra khỏi danh mục được phép nhập khẩu trong tương lai gần. Ông Phạm Đình Thưởng, chuyên gia phân tích chính sách cho rằng: “Nếu loại bỏ nguồn nguyên liệu tái chế này chắc chắn ảnh hưởng đến sự phát triển chung của ngành giấy. Mặt khác, việc Chính phủ siết chặt quản lý đột ngột khiến DN lâm vào thế bị động. Nhà máy cần vận hành hằng ngày nhưng nguyên liệu cần lại không thể đến khiến hoạt động sản xuất đình trệ. Việc này cũng sẽ gây ra những phản ứng dây chuyền đến một chuỗi các ngành công nghiệp khác, như: Công nghiệp bao bì, công nghiệp xuất khẩu”.
Theo ông Phan Chí Dũng, bất cứ DN giấy nào khi sử dụng phế liệu hay nguồn nguyên liệu nào khác, nhập khẩu hay thu mua trong nước để sản xuất đều có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nếu không có biện pháp quản lý tốt. Còn việc lo ngại nhập khẩu phế liệu sẽ biến Việt Nam thành bãi rác thì điều này chỉ đúng khi nguyên liệu này không phục vụ cho bất cứ hoạt động sản xuất nào, còn một khi đã là nguyên liệu sản xuất quan trọng, lại là mặt hàng được giao dịch toàn cầu thì cơ quan quản lý cần xem xét thấu đáo.
Ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) khuyến nghị, Việt Nam cần tham khảo chính sách quản lý nhập khẩu GPL của các nước, đối chiếu với tình hình phát triển kinh tế và nhu cầu tại Việt Nam để đưa ra được chính sách phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc các cơ quan Nhà nước có liên quan tham vấn các DN để có quan điểm khách quan hơn trong hình thành và hoàn thiện khung khổ pháp lý này là hoàn toàn cần thiết.
Theo ông Hoàng Trung Sơn, nên áp dụng khâu hậu kiểm tại nhà máy đối với việc sản xuất giấy, nhập khẩu GPL phải bảo đảm tuân thủ các quy định hiện hành về việc kiểm tra tạp chất trong GPL, tăng mức hình phạt để đủ sức răn đe đối với DN vi phạm quy định về sử dụng GPL. Bên cạnh đó tiến hành rà soát, chỉnh sửa tiêu chuẩn GPL đang nhập khẩu vào Việt Nam để GPL được quản lý như một nguồn nguyên liệu sản xuất. Đồng thời thay đổi tên nguyên liệu giấy từ GPL thành “giấy thu hồi sử dụng làm nguyên liệu cho sản xuất”.
QUANG DUY