Cải thiện xếp hạng tín nhiệm

Theo phân tích của các chuyên gia, vấn đề nợ công đạt được những mục tiêu trên là nhờ 4 nguyên nhân. Thứ nhất, nền tảng vĩ mô khởi sắc, tăng trưởng GDP vượt kế hoạch và đạt mức cao nhất trong 11 năm qua. Thứ hai, điều hành chính sách tài khóa đạt được nhiều thành quả khả quan, thu cân đối ngân sách ước vượt 7,8% so với dự toán, dự kiến bội chi ngân sách Nhà nước (NSNN) thấp hơn so với dự toán là 3,7% GDP, qua đó giảm nhu cầu huy động vốn vay của Chính phủ. Thứ ba, giải ngân vốn ODA, ưu đãi nước ngoài chậm hơn dự kiến và biến động tỷ giá được kiểm soát tốt góp phần giảm quy mô nợ nước ngoài của Chính phủ khi quy ra đồng Việt Nam. Thứ tư, kiểm soát chặt chẽ các khoản bảo lãnh của Chính phủ, không cấp bảo lãnh mới cho doanh nghiệp vay trong nước và khuyến khích người vay trả nợ trước hạn dẫn đến giảm dư nợ bảo lãnh nước ngoài. Việc các chỉ tiêu nợ được kiểm soát chặt chẽ và nằm trong giới hạn theo các nghị quyết của Quốc hội, góp phần quan trọng tiếp tục cải thiện mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam. Tổ chức Standard & Poor's nâng hệ số tín nhiệm của Việt Nam từ BB-lên mức BB với triển vọng ổn định (tháng 4-2019); Moody’s nâng xếp hạng tín nhiệm Việt Nam từ B1 lên Ba3 và thay đổi triển vọng từ ổn định sang tích cực (tháng 8-2018); Fitch nâng xếp hạng tín nhiệm Việt Nam từ BB-lên BB (tháng 5-2018) và thay đổi triển vọng từ ổn định sang tích cực (tháng 5-2019).

Theo ông Võ Hữu Hiển, Phó cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính): Quy mô danh mục nợ Chính phủ đến cuối năm 2018 được kiểm soát tốt ở mức 50,0% GDP (so với mức 52,7% vào năm 2016; 51,7% vào năm 2017). Tuy vậy, cùng với ảnh hưởng của việc Việt Nam tốt nghiệp IDA (dừng nhận các khoản vay ưu đãi từ Hiệp hội phát triển Quốc tế) kể từ năm 2017, các chỉ tiêu chi phí-rủi ro danh mục nợ Chính phủ, đặc biệt là nợ nước ngoài, có xu hướng kém thuận lợi hơn trước đây, như: Rủi ro tái cấp vốn tập trung vào các khoản nợ trong nước của Chính phủ do nghĩa vụ trả nợ đến hạn tập trung cao vào một số năm (9,3% danh mục nợ trong nước của Chính phủ sẽ đến hạn năm 2019; 32,7% sẽ đến hạn trong giai đoạn 2019-2021), điều này tác động đến việc bố trí nguồn trả nợ trong cân đối NSNN. Đối với danh mục nợ nước ngoài của Chính phủ, trong 5 năm tới các khoản vay ODA sẽ giảm dần, tiến đến kết thúc, khiến cho thiếu hụt nguồn vốn vay dài hạn, ưu đãi đầu tư. Thay vào đó, Chính phủ cần huy động các khoản vay mới với điều kiện kém ưu đãi hơn, sát với thị trường để bù đắp thiếu hụt cho cân đối NSNN và đầu tư công trung hạn.

Kiểm soát tự vay tự trả

Đại diện Bộ Tài chính nhận định, rủi ro lãi suất danh mục nợ nước ngoài có xu hướng gia tăng do tỷ trọng các khoản vay có lãi suất thả nổi tăng. Tuy nhiên, nhìn chung mặt bằng lãi suất bình quân nợ nước ngoài của Chính phủ vẫn duy trì ở mức thấp (2,0%/năm) do hơn 96% khoản vay nước ngoài có điều kiện ODA, vay ưu đãi. Yếu tố này góp phần quan trọng giúp duy trì chỉ tiêu trả nợ trên thu NSNN trong ngưỡng an toàn và được Quỹ Tiền tệ Quốc tế cũng như các tổ chức xếp hạng tín nhiệm đánh giá tích cực khi phân tích tính bền vững danh mục nợ của Việt Nam. Mặc dù tỷ lệ vay bằng đồng Việt Nam đã tăng lên (từ 55% vào cuối năm 2015 lên 59,2% dư nợ Chính phủ tính đến hết năm 2018), song danh mục nợ nước ngoài của Chính phủ vẫn tập trung vào 4 loại tiền chủ đạo, gồm: SDR, JPY, USD và EUR, là những đồng tiền có biến động lớn trong thời gian vừa qua.

Theo ông Võ Hữu Hiển, trong điều hành nợ công, phải xác định 4 yếu tố là bảo đảm huy động vốn để phục vụ phát triển; lựa chọn chi phí phù hợp, hạn chế rủi ro; bảo đảm chi tiêu an toàn nợ công và cuối cùng là hướng đến phát triển thị trường vay vốn trong nước và thị trường TPCP, hạn chế các khoản vay nước ngoài để không ảnh hưởng đến an ninh tài chính quốc gia. Chính vì vậy thời gian tới, Bộ Tài chính tiếp tục thực hiện quyết liệt chỉ đạo và chủ trương, giải pháp cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững theo Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị. Theo đó sẽ tổ chức đối chiếu, rà soát, đánh giá, tổng hợp nhu cầu vay của các bộ, ngành, địa phương và các đơn vị sử dụng vốn vay công. Qua đó dự báo tổng mức vay, trả nợ của ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương, hạn mức vay về cho vay lại và hạn mức bảo lãnh Chính phủ sau năm 2020; triển khai các công cụ quản lý nợ chủ động phục vụ việc xây dựng kế hoạch vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025 để trình Quốc hội xem xét, quyết định. Đồng thời thúc đẩy phát triển thị trường vốn trong nước, thị trường TPCP cả về chiều rộng và chiều sâu theo hướng đa dạng hóa công cụ nợ và mở rộng cơ sở nhà đầu tư, ưu tiên phát triển nhà đầu tư dài hạn, thu hút sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường vốn, thị trường trái phiếu. Đặc biệt, phải kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện hạn mức nợ nước ngoài theo phương thức tự vay, tự trả của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng, bảo đảm trong hạn mức được phê duyệt, đặc biệt là các khoản nợ ngắn hạn.

Riêng về cấp bảo lãnh chính phủ đã được thực hiện chặt chẽ bằng những quy định pháp lý, bảo đảm giới hạn nợ vay an toàn và khả năng trả được nợ, không tăng thêm gánh nặng cho nợ công. Việc cấp bảo lãnh chính phủ được ưu tiên các dự án có tầm quan trọng đặc biệt cho phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

DƯƠNG TỬ