QĐND - Là thành viên Chính phủ cuối cùng tham gia chất vấn và trả lời chất vấn trước Quốc hội vào chiều 19-11, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng trao đổi với các đại biểu về nhiều vấn đề lớn liên quan tới tất cả các lĩnh vực kinh tế-xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại.
Quản lý chặt nợ công
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cho hay, Thủ tướng đã nhận được 17 văn bản chất vấn của các đại biểu Quốc hội. Các vấn đề chất vấn chủ yếu tập trung vào lĩnh vực quản lý nợ công, xử lý nợ xấu, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng suất lao động và giảm nghèo bền vững…
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, nợ công của quốc gia là vấn đề hệ trọng, được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đặc biệt quan tâm. Đây cũng là vấn đề được các đại biểu Trần Hoàng Ngân (TP Hồ Chí Minh); Trần Xuân Hòa (Quảng Ninh); Hà Sỹ Đồng (Quảng Trị); Nguyễn Thị Phúc (Bình Thuận); Vũ Tiến Lộc (Thái Bình)... quan tâm, chất vấn Thủ tướng.
 |
|
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội. Ảnh: TTXVN.
|
Một tin vui được Thủ tướng chuyển tới Quốc hội, ngày 7-11 vừa qua, Việt Nam đã phát hành thành công 1 tỷ USD trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm ra thị trường vốn quốc tế với mức lãi suất 4,8%/năm để đảo nợ các khoản trái phiếu Chính phủ đã phát hành trước đây (năm 2005 và năm 2010) với lãi suất bình quân 6,8%/năm, làm giảm đáng kể chi phí lãi vay, đồng thời xác lập chuẩn lãi suất mới có lợi hơn cho các hoạt động kinh tế-tài chính của Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Thủ tướng khẳng định, hơn 98% vốn vay được sử dụng trực tiếp cho các dự án hạ tầng, phần còn lại được đưa vào ngân sách Nhà nước chi cho đầu tư phát triển (1,5%) và một phần chi sự nghiệp trong các dự án vay ODA theo cam kết (0,4%). Rất nhiều công trình quan trọng, thiết yếu về giao thông, điện, viễn thông, nước, thủy lợi, y tế, giáo dục… đã hoàn thành, phát huy hiệu quả và nhiều công trình đang xây dựng, góp phần thu hút đầu tư, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu, tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa xã hội và nâng cao đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, nợ công đã tăng sát trần cho phép, áp lực trả nợ lớn trong ngắn hạn. Một số dự án đầu tư kém hiệu quả, tình trạng tham nhũng, lãng phí trong đầu tư xây dựng vẫn còn, có vụ việc nghiêm trọng. Cơ cấu ngân sách chưa lành mạnh; tỷ trọng thu ngân sách/GDP giảm; chi thường xuyên tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn; tỷ trọng chi đầu tư giảm; bội chi còn cao. Thực trạng này gây lo lắng, bức xúc trong xã hội; nếu chủ quan, buông lỏng, không tiếp tục chủ động kiểm soát chặt chẽ, hiệu quả, sẽ gây mất an toàn tài chính quốc gia và ổn định kinh tế vĩ mô.
Trong thời gian tới, để xây dựng nền tảng vững chắc sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, cùng với việc tăng cường huy động các nguồn lực ngoài nhà nước và nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, Việt Nam vẫn phải tiếp tục sử dụng vốn vay cả trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. “Chính phủ sẽ tăng cường quản lý, nghiêm túc khắc phục hạn chế, yếu kém, nâng cao hiệu quả sử dụng nợ công; tập trung cho đầu tư phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội; thực hiện đúng các quy định và kế hoạch đề ra; trả nợ đầy đủ và đúng hạn. Đồng thời, quản lý chặt chẽ các khoản nợ khác. Chủ động từng bước điều chỉnh cơ cấu thu chi ngân sách Nhà nước lành mạnh. Bảo đảm an toàn tài chính quốc gia và ổn định kinh tế vĩ mô”-Thủ tướng hứa trước Quốc hội.
Nỗ lực lớn xử lý nợ xấu
Theo cách đặt vấn đề của đại biểu Thân Đức Nam (Đà Nẵng), nợ xấu là hiện tượng bình thường của các ngân hàng. Tuy nhiên, nếu làm nền kinh tế trì trệ, nợ xấu sẽ trở thành vấn đề của kinh tế vĩ mô. Do vậy, ở nhiều nước, Chính phủ phải can thiệp để xử lý. Từ đó, đại biểu nêu câu hỏi: Chính phủ có can thiệp và sử dụng ngân sách để hỗ trợ xử lý nợ xấu hay không? Đây cũng là vấn đề được các đại biểu Hà Sỹ Đồng (Quảng Trị); Nguyễn Đức Thanh (Ninh Thuận); Đặng Đình Luyến (Khánh Hòa); Lê Đắc Lâm (Bình Thuận) và Vũ Tiến Lộc (Thái Bình) quan tâm, chất vấn Thủ tướng.
Báo cáo trước Quốc hội, Thủ tướng lý giải, trong thời gian qua, quản lý nhà nước còn chưa chặt chẽ, năng lực quản trị của nhiều tổ chức tín dụng và doanh nghiệp còn nhiều yếu kém, một số trường hợp vi phạm pháp luật, cùng với tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, thị trường tài chính, thị trường bất động sản bị ảnh hưởng nghiêm trọng, sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn, nhiều doanh nghiệp thua lỗ, không trả được nợ, dẫn đến nợ xấu gia tăng. Nợ xấu làm cho nhiều doanh nghiệp không vay được vốn, sản xuất, kinh doanh khó khăn, đình trệ, ảnh hưởng đến việc làm, đời sống và tăng trưởng kinh tế. Nợ xấu còn làm cho tình hình tài chính của các tổ chức tín dụng không lành mạnh, thanh khoản khó khăn, một số ngân hàng thương mại đứng trước nguy cơ đổ vỡ, đe dọa an toàn hệ thống và ổn định kinh tế vĩ mô.
Chính phủ đã báo cáo Bộ Chính trị, Quốc hội và phê duyệt các Đề án Cơ cấu lại tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu. Mục tiêu của xử lý nợ xấu là cải thiện thanh khoản, tình hình tài chính, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng, đáp ứng yêu cầu vốn cho phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm an toàn hệ thống. Phấn đấu đến cuối năm 2015 đưa nợ xấu về mức an toàn trong kinh tế thị trường. Triển khai thực hiện Đề án, Ngân hàng Nhà nước cùng các bộ, ngành liên quan và địa phương đã tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra việc chấp hành các quy định về an toàn hoạt động, tình hình tài chính, nợ xấu và kết quả xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng; đồng thời hoàn thiện các quy định về phân loại nợ, cơ cấu lại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro, bảo đảm chặt chẽ, minh bạch và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Nhờ sự nỗ lực chung, trực tiếp là Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng, đến tháng 10 năm 2014 đã xử lý được 54,3% tổng số nợ xấu được xác định tại thời điểm tháng 9 năm 2012 (465 nghìn tỷ đồng).
“Theo kinh nghiệm quốc tế, để xử lý nợ xấu nhanh và hiệu quả, các nước thường phải chi một khoản lớn từ ngân sách Nhà nước, đồng thời phải có khung khổ pháp lý hoàn chỉnh về xử lý nợ xấu và có thị trường tài chính phát triển. Việc xử lý nợ xấu ở Việt Nam gặp nhiều khó khăn và cần phải có thời gian, do khung khổ pháp lý chưa hoàn chỉnh, không có nguồn ngân sách Nhà nước và cũng chưa có kinh nghiệm xử lý. Kết quả xử lý nợ xấu đạt được trong thời gian qua là sự nỗ lực rất lớn”, Thủ tướng cho biết.
Thủ tướng hứa với Quốc hội, thời gian tới, Chính phủ sẽ tiếp tục thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để xử lý hiệu quả vấn đề nợ xấu, đẩy mạnh tái cơ cấu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo thuận lợi cho xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các tổ chức tín dụng. Phấn đấu đến cuối năm 2015 đưa tỷ lệ nợ xấu xuống còn khoảng 3%, bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng.
Tăng chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia
Trả lời chất vấn của các đại biểu Lê Đắc Lâm (Bình Thuận); Đỗ Thị Thu Hằng (Đồng Nai); Vũ Tiến Lộc (Thái Bình); Võ Kim Cự (Hà Tĩnh), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dẫn các kết quả xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2013 cho thấy, xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh và môi trường kinh doanh đều đánh giá Việt Nam ở hạng trung bình thấp. Để khắc phục điều này, vừa qua, Chính phủ đã thực hiện hàng loạt giải pháp. Kết quả, theo Báo cáo cập nhật về Môi trường kinh doanh công bố tháng 10-2014 của Ngân hàng Thế giới (số liệu tính đến tháng 6-2014), xếp hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam tăng 21 bậc, từ 99 lên 78/189. Theo Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu công bố tháng 9-2014 của Diễn đàn Kinh tế thế giới, chỉ số năng lực cạnh tranh của Việt Nam tăng 2 bậc, từ 70 lên 68/148 nền kinh tế. Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế đã nâng mức xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam (Moody’s nâng từ mức B2 lên B1, Fitch nâng từ B+ lên BB- và đều đánh giá Việt Nam có triển vọng ổn định).
Tuy nhiên, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đánh giá: “Môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh của nước ta so với các nước trong khu vực còn thấp”… “Mặc dù chúng ta đã có nhiều nỗ lực, nhưng trong thể chế luật pháp, cơ chế chính sách, thủ tục hành chính, thực thi công vụ... vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc, gây khó khăn, phiền hà, tốn kém thời gian, chi phí cho doanh nghiệp và người dân. Một số bộ, ngành, địa phương chưa quan tâm đúng mức, chưa coi việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh là nhiệm vụ cấp thiết”. Thủ tướng cũng hứa rằng, Chính phủ sẽ tiếp tục chỉ đạo cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Sớm đưa nước ta thành nước công nghiệp, hiện đại
Điểm lại nội dung chất vấn với các vị Bộ trưởng, trưởng ngành trong 3 ngày, đại biểu Trịnh Ngọc Phương (Tây Ninh) đưa ra nhiều vấn đề còn hạn chế, tồn tại. Đó là, hạ tầng giao thông còn bất cập, công nghiệp phụ trợ, công nghiệp cơ khí, cơ chế đầu tư công nghiệp, nguồn nhân lực, nhất là lao động chất lượng cao; bất cập trong khuyến khích sáng tạo khoa học kỹ thuật cũng như đầu tư khoa học công nghệ. Từ đó, đại biểu nêu câu hỏi, với thực trạng đó, nhiệm vụ mà Chính phủ cần tập trung trước mắt từ nay đến năm 2015 là gì để bảo đảm đến năm 2020 đạt được mục tiêu nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo Nghị quyết của Trung ương khóa XI đã đề ra?
Đánh giá rằng, vấn đề mà đại biểu Trịnh Ngọc Phương nêu ra rất rộng, Thủ tướng nói tóm lược, để đưa nước ta sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại theo Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Việt Nam phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, đặc biệt là phải thực hiện tốt 3 đột phá chiến lược. Đó là đột phá chiến lược về thể chế, về nguồn nhân lực và về xây dựng kết cấu hạ tầng, kinh tế xã hội theo hướng đồng bộ, hiện đại. Thủ tướng nhấn mạnh: “Không có cách nào khác là tiếp tục quán triệt sâu sắc, triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, đặc biệt là thực hiện có hiệu quả 3 đột phá chiến lược, thì chúng ta có thể chắc chắn sẽ thực hiện thắng lợi mục tiêu này”.
Phần trả lời chất vấn của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khép lại 3 ngày chất vấn và trả lời chất vấn sôi nổi, thẳng thắn với tinh thần xây dựng cao trên diễn đàn Quốc hội.
CHIẾN THẮNG