QĐND - Ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), những năm gần đây, ngành nông nghiệp đã có những bước phát triển mạnh mẽ trong việc nâng cao năng suất, chất lượng nông sản, trong đó có những sản phẩm chủ lực như: Lúa gạo, thủy sản (cá da trơn, tôm), rau quả… đóng góp quan trọng vào kim ngạch xuất khẩu nông sản của cả nước. Mặc dù sản lượng xuất khẩu nông sản của khu vực này ngày càng được nâng cao nhưng giá trị mà nó đem lại vẫn chưa như mong đợi.

Yếu về chất lượng, thương hiệu

Là vùng trọng điểm sản xuất nông sản của cả nước, ĐBSCL có khoảng 4.000.000ha đất trồng lúa, 800.000ha nuôi thủy sản và 300.000ha trồng cây ăn quả. Trong lĩnh vực sản xuất lúa gạo, ĐBSCL đóng góp 90% lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Năm 2014, các địa phương ĐBSCL khai thác thủy sản đạt hơn 2,4 triệu tấn, trong đó có 1,2 triệu tấn cá tra và 400.000 tấn tôm phục vụ chế biến, xuất khẩu.

Trái cây xuất khẩu là một trong những thế mạnh của Đồng bằng sông Cửu Long.

Các chuyên gia của Viện Cây ăn quả miền Nam kiểm tra chất lượng trái cây rải vụ phục vụ xuất khẩu.

Tuy sản lượng xuất khẩu nông sản cao nhưng cuộc sống của nông dân ĐBSCL, người trực tiếp làm ra sản phẩm vẫn còn gặp nhiều khó khăn, lợi ích kinh tế thu được thấp.

Lý giải vấn đề này, ông Huỳnh Thế Năng, Tổng giám đốc Tổng công ty Lương thực miền Nam (Vinafood 2) cho rằng, nguyên nhân thì có nhiều, nhưng cơ bản là gạo Việt Nam vừa không có thương hiệu, chất lượng lại thấp. Khoảng 70% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam là gạo có phẩm cấp thấp (25% tấm) nên khó tiếp cận vào các phân khúc thị trường cấp cao. Trong khi đó, phân khúc cấp trung, cấp thấp lại có nhiều quốc gia cùng cạnh tranh, đưa đến giá bán và lợi nhuận giảm.

Ông Năng dẫn chứng, các chuyên gia của Viện Nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) và Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) cũng nhận định: Gạo Việt Nam số lượng nhiều, chất lượng thấp, giá thành cao, hình ảnh xuất khẩu thấp, chưa hấp dẫn các nhà nhập khẩu và thu hút đầu tư vào Việt Nam. "Việc tiêu thụ và xuất khẩu gạo sẽ gặp nhiều khó khăn nếu không có sự thay đổi về phương thức sản xuất và tiêu thụ", ông Năng nói.

Cũng như sản xuất lúa gạo, trong hơn 10 năm trở lại đây, ngành nuôi trồng và chế biến thủy sản xuất khẩu ĐBSCL không ngừng phát triển và trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, sản xuất hàng hóa lớn, đi đầu trong hội nhập kinh tế quốc tế của cả khu vực. Sản phẩm thủy sản xuất khẩu của ĐBSCL đã có mặt ở 165 quốc gia và vùng lãnh thổ. Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam, xét về tổng thể, chất lượng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam, trong đó tập trung lớn nhất ở ĐBSCL đã được khách hàng quốc tế đánh giá cao, tỷ lệ lỗi và cảnh báo an toàn thực phẩm thấp và ngày càng giảm.

Tuy nhiên, một trong những hạn chế của thủy sản xuất khẩu ĐBSCL vẫn là giá cả, chất lượng và thương hiệu chưa bảo đảm, khiến sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế còn yếu, dễ bị tổn thương trước các rào cản thương mại, nhất là rào cản về vệ sinh an toàn thực phẩm, sức khỏe người lao động; thậm chí còn dẫn đến phát sinh các vụ kiện thương mại và bị truyền thông bên ngoài xuyên tạc.

Nói về lĩnh vực sản xuất cây ăn quả, ông Nguyễn Sơn Tùng, Phó chủ tịch Hội Nông dân TP Cần Thơ khẳng định: Trái cây của ĐBSCL có rất nhiều tiềm năng để xuất khẩu, nhiều loại trái cây được thị trường thế giới ưa chuộng nhưng sản lượng và chất lượng thiếu tính ổn định, chưa có thương hiệu đặc trưng.

Tăng cường các mối liên kết, hợp tác

Năm 2014, lĩnh vực sản xuất cây ăn quả ở ĐBSCL đạt được kết quả đáng phấn khởi nhờ thực hiện chương trình sản xuất rải vụ một số loại trái cây chủ lực do Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) và các địa phương trong vùng triển khai. Có 5 loại trái cây được chọn sản xuất rải vụ là thanh long, xoài, chôm chôm, sầu riêng và nhãn. Nhiều loại trái cây đặc sản của ĐBSCL như xoài, chôm chôm, nhãn, sầu riêng, thanh long… đã cho sản lượng cao, góp phần nâng tổng khối lượng xuất khẩu cây ăn quả của Nam Bộ đạt 1,6 triệu tấn, thu về gần 1,5 tỷ USD, tăng gần 500 triệu USD so với năm 2013.

Ông Phạm Văn Dư, Phó cục trưởng Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết: Mục đích tổ chức sản xuất rải vụ nhằm có được sản lượng trái cây ổn định phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, tránh tình trạng được mùa rớt giá. Qua thực hiện chương trình, các địa phương đã bước đầu hình thành sự liên kết, điều phối hợp lý trong sản xuất rải vụ, giúp tăng rõ rệt hiệu quả sản xuất và nâng cao thu nhập cho nông dân.

Tiến sĩ Lưu Hồng Mẫn, Phó viện trưởng Viện lúa ĐBSCL cho rằng, liên kết sản xuất và tiêu thụ (bao gồm cả xuất khẩu) chính là chìa khóa để phát triển một nền nông nghiệp hiện đại. Ông đề xuất: Để xây dựng mối liên kết, trước hết phải liên kết trong nghiên cứu tạo giống lúa. Bằng sự hợp tác nghiên cứu, các cơ quan, đơn vị sẽ chọn ra giống lúa mới có chất lượng, giá trị thương mại và giá trị gia tăng phục vụ phát triển sản phẩm thương hiệu quốc gia, từ đó tạo ra một vùng sản xuất lúa hàng hóa bền vững, đáp ứng nhu cầu của thị trường xuất khẩu. Tiếp theo đó là tăng cường các mối liên kết, hợp tác như: Sản xuất giống, chuyển giao kỹ thuật, trao đổi thông tin, chế biến bảo quản sau thu hoạch, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm… Trong đó tổ chức liên kết nông dân trong chuỗi cung ứng lúa gạo và xây dựng thương hiệu phải được đặc biệt quan tâm.

PGS, TS Nguyễn Hữu Dũng, Phó chủ tịch Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam cho biết: Điểm yếu lớn nhất trong sản xuất và chế biến thủy sản ở ĐBSCL chính là sự phối hợp, liên kết vùng kém hiệu quả, sự liên kết giữa nhà nước-nhà khoa học-nhà doanh nghiệp-nhà nông-ngân hàng vẫn còn mang tính hình thức. Nền sản xuất phân tán, tự phát dẫn tới hạn chế các nguồn lực để ngành thủy sản ĐBSCL vươn lên. Một trong những giải pháp mà ĐBSCL có thể tập trung xây dựng là tập hợp cộng đồng doanh nghiệp thành hệ thống và xây dựng thương hiệu mạnh của quốc gia. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh liên kết với các hiệp hội phân phối ngoài nước để qua đó kịp thời nắm bắt thông tin thị trường, tránh tình trạng cạnh tranh gây rối loạn thị trường.

Nói về việc cần thiết phải xây dựng thương hiệu cho nông sản ĐBSCL, ông Dương Quốc Xuân, Phó trưởng Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ nhìn nhận: Nguyên nhân chính dẫn đến khả năng cạnh tranh kém hiệu quả ở thị trường xuất khẩu nông sản vùng ĐBSCL chính là không có thương hiệu riêng, làm ảnh hưởng đến hình ảnh và lợi ích kinh tế cho các doanh nghiệp trong khu vực. Để có được thương hiệu mạnh, theo ông Xuân, ĐBSCL cần phải có chiến lược phát triển cùng hệ thống chính sách, giải pháp đồng bộ từ quy hoạch, đầu tư, tổ chức sản xuất đến liên kết thị trường.

Bài và ảnh: HỒNG HIẾU