QĐND - Sự phát triển kinh tế, xã hội của nước ta trong những năm qua đã làm gia tăng nhanh chóng lực lượng lao động giúp việc gia đình (GVGĐ), đặc biệt là ở các thành phố lớn. Tuy không trực tiếp làm ra của cải vật chất cho xã hội nhưng lao động GVGĐ đã tạo điều kiện cho lực lượng lao động chính, có chất lượng cao, phát huy khả năng, trí sáng tạo trong hoạt động sản xuất, phát triển kinh tế xã hội. Mặt khác, GVGĐ cũng mang lại thu nhập tương đối ổn định cho nhiều lao động, đặc biệt là lao động nữ ở nông thôn. Khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu Giới, Gia đình và Phát triển cộng đồng cho thấy, tại Hà Nội, lương trung bình của một người giúp việc là khoảng 2,8 triệu đồng/tháng (năm 2012), trong khi thu nhập bình quân của người dân sống tại khu vực nông thôn ngoại thành là 1,4 triệu đồng/tháng. Hiện nay, nhu cầu xã hội đối với loại hình lao động này ngay một gia tăng. Theo Trung tâm Dự báo và Thông tin thị trường lao động Quốc gia, số lượng lao động giúp việc gia đình sẽ lên tới gần 250.000 người vào năm 2015, trong đó lao động nữ chiếm tới hơn 98,7%.

Tuy nhiên, theo Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Giới, Gia đình và Phát triển cộng đồng Ngô Ngọc Anh, hiện nay công việc này vẫn chưa được nhiều người coi là một nghề chính thức. Người giúp việc gia đình làm việc chủ yếu theo kinh nghiệm và phần lớn chưa qua đào tạo nghề (98,4%) nên chất lượng làm việc chưa cao. Đồng thời, môi trường làm việc của người GVGĐ thường khép kín trong không gian nhà riêng của người sử dụng lao động, nên họ thường có nguy cơ lạm dụng sức lao động, gặp phải những rủi ro như bị bạo lực, ngược đãi, quấy rối tình dục. Hoặc họ có thể bị chủ sử dụng lao động không thực hiện đúng thỏa thuận về công việc, thời gian, tiền lương hay các quyền lợi như quyền được chi trả một phần bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội không được bảo đảm…

Đồng tình với quan điểm trên, nhưng ông Nguyễn Hữu Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) cho rằng, hiện nay, cũng không ít trường hợp người sử dụng lao động GVGĐ khốn đốn vì tính khí thất thường, đòi tăng lương vô lý, nghỉ không báo trước của một số người giúp việc. Ông Minh cũng nêu rõ, mặc dù có quy định về việc người sử dụng lao động phải ký kết hợp đồng lao động bằng văn bản với người giúp việc gia đình, tuy nhiên qua khảo sát, có tới 91,5% hợp đồng giữa chủ nhà và người giúp việc là “hợp đồng miệng”. Bởi thực tế, người giúp việc chưa thấy được lợi ích của việc ký hợp đồng và không muốn bị trói buộc vào một gia đình, nên gia chủ cũng không muốn chịu trách nhiệm và bị ràng buộc về mặt pháp lý.

Xuất phát từ thực trạng trên, nhiều ý kiến cho rằng, bảo vệ quyền của lao động giúp việc và cần phải sớm hoàn thiện chính sách pháp luật cho nhóm lao động này là việc rất cần thiết. Cụ thể là việc xây dựng và ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết việc thực hiện 5 Điều của Mục 5 (Lao động là người giúp việc gia đình), Bộ luật Lao động 2012; xây dựng và ban hành các chính sách khuyến khích và hỗ trợ phát triển nghề giúp việc gia đình; tạo cơ hội cho những đối tượng này được tham gia vào các tổ chức đại diện… Khi đó, GVGĐ sẽ được xã hội công nhận chính thức trở thành một nghề, người lao động sẽ được hưởng đầy đủ các quyền lợi theo pháp luật như được đào tạo nghề, cấp chứng chỉ hành nghề… và sẽ tránh được những kỳ thị, phân biệt từ xã hội. Đồng thời, khi chính sách pháp luật về đối tượng này sớm được ban hành cũng là cơ sở để bảo vệ quyền lợi của người sử dụng lao động GVGĐ.

NAM TRỰC