QĐND Online – Dự thảo Luật Giáo dục đại học (GDĐH) vừa được đưa ra lấy ý kiến tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa XIII. Theo báo cáo thẩm tra của Ủy ban Văn hóa Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng Quốc hội thì Dự thảo Luật vẫn chưa thể chế hóa rõ ràng một số chủ trương, chính sách lớn, chưa giải quyết thấu đáo, triệt để một số vấn đề quan trọng của GDĐH. Phóng viên báo QĐND Online đã có cuộc trao đổi với GS.TSKH. Bùi Văn Ga, Thứ trưởng Bộ GD- ĐT về vấn đề này.

Thứ trưởng Bộ GD- ĐT Bùi Văn Ga

 

Khắc phục sự chậm thay đổi của hệ thống quản lý GDĐH

Phóng viên (PV): Thưa Thứ trưởng, nguyên nhân nào khiến chất lượng GDĐH hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu mong đợi?

Thứ trưởng Bùi Văn Ga: Sau 25 năm đổi mới của đất nước và 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010, GDĐH nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ về quy mô, loại hình trường và về hình thức đào tạo; cung cấp nguồn lao động chủ lực phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế.

Tuy nhiên, GDĐH cũng còn những hạn chế khiến chất lượng đào tạo chưa đáp ứng được mong đợi của xã hội. Nguyên nhân chính bao gồm những yếu tố khách quan và chủ quan. Về mặt khách quan, nguồn lực đầu tư của nền kinh tế hiện nay cho GDĐH còn hạn chế, thể hiện qua chi phí tổng thể đầu tư cho mỗi sinh viên trong một năm ở nước ta còn thấp hơn nhiều so với các nước phát triển. Nguyên nhân chủ quan liên quan đến hệ thống quản lý nhà nước đối với cơ sở GDĐH chậm được thay đổi, chưa bảo đảm được sự phát huy năng lực của toàn hệ thống, chưa phát huy mạnh mẽ được sự sáng tạo của đội ngũ nhà giáo, các nhà quản lý và người học để tạo nên sức mạnh tổng hợp để nâng cao chất lượng đào tạo.

PV: Dự thảo Luật GDĐH liệu có khắc phục được những bất cập đó không?

Thứ trưởng Bùi Văn Ga: Dự thảo Luật GDĐH nhằm thể chế hóa các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà Nước về giáo dục đại học, nâng cao hiệu quả thực hiện các chủ trương, chính sách này để phát huy sức mạnh toàn hệ thống nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Vì vậy, việc ban hành Luật GDĐH là rất cần thiết để khắc phục những bất cập vừa nêu.

Qua các hội nghị, hội thảo xây dựng dự thảo Luật, Ban soạn thảo đã tập hợp được trên 400 ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân và đã rút ra được 4 vấn đề lớn mà xã hội quan tâm, trông chờ dự thảo Luật có thể xử lý gồm: phân tầng đại học, xã hội hóa giáo dục, quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học và vấn đề kiểm soát chất lượng đào tạo. Ban soạn thảo Luật đã tiếp thu ý kiến, cân nhắc kỹ lưỡng cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn để đưa vào dự thảo Luật những điều khoản bao quát tất cả những vấn đề này ở các mức độ khác nhau.

PV: Theo báo cáo thẩm tra của Ủy ban Văn hóa Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng Quốc hội vừa đưa ra thì Dự thảo Luật vẫn chưa thể chế hóa rõ ràng một số chủ trương, chính sách lớn, chưa giải quyết thấu đáo, triệt để một số vấn đề quan trọng của GDĐH. Ông nhìn nhận điều đó ra sao?

Thứ trưởng Bùi Văn Ga: Những chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà Nước về giáo dục đại học đã được đưa vào dự thảo luật. Những điều khoản của luật phải chặt chẽ và mang tính bao quát nhất, không thể quá chi tiết như các văn bản dưới luật. Những vấn đề quan trọng của giáo dục đại học được xã hội quan tâm cũng được xử lý trong dự thảo luật lần này như vấn đề phân tầng các cơ sở giáo dục đại học, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cơ chế, chính sách đối với các cơ sở giáo dục đại học tư thục lợi nhuận và phi lợi nhuận, giám sát chất lượng đào tạo… 

Vấn đề quan trọng của giáo dục đại học mà xã hội quan tâm nhiều nhất là việc giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học. Xã hội kỳ vọng GDĐH sẽ có một bước phát triển mạnh mẽ khi các trường được giao quyền tự chủ hoàn toàn. Ban soạn thảo luật nhận rõ tầm quan trọng của vấn đề này và vì vậy, việc giao quyền tự chủ cho các cơ GDĐH đã được thể hiện xuyên suốt các điều khoản của dự thảo luật. Giao quyền tự chủ cho các nhà trường là tất yếu, khách quan nhưng được thực hiện theo lộ trình và tùy thuộc vào năng lực cụ thể của từng trường chứ không thể giao đồng loạt. Bởi năng lực và kinh nghiệm quản lý của các cơ sở giáo dục đại học nước ta hiện còn có sự chênh lệch khá xa, tinh thần tự chịu trách nhiệm của cơ sở GDĐH chưa được thể hiện đầy đủ. Mối quan hệ dân sự giữa người học và cơ sở đào tạo cũng chưa được tự xử lý, người dân vẫn còn thói quen tìm đến cơ quan quản lý Nhà nước về giáo dục để được bảo vệ quyền lợi của mình khi nhà trường vi phạm việc thực hiện quyền tự chủ.

Hiện nay, quyền tự chủ cao đã được giao cho một số trường như các đại học Quốc gia, các đại học vùng, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội. Trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm của các trường này, số lượng trường được giao quyền tự chủ sẽ được mở rộng. Dự thảo Luật nêu rõ những lĩnh vực hoạt động mà trường được giao quyền tự chủ, ngoài tự chủ về tổ chức nhân sự, đào tạo, hợp tác quốc tế, nghiên cứu khoa học… cơ sở giáo dục đại học còn giao tự chủ trong xác định chỉ tiêu, tổ chức tuyển sinh, in phôi bằng để cấp cho người học… Nghĩa là khi nhà trường thể hiện được năng lực thực hiện quyền tự chủ thì quyền tự chủ sẽ được giao hoàn toàn. Tất nhiên quyền tự chủ phải đi kèm với tự chịu trách nhiệm. Khi cơ sở giáo dục đại học vi phạm quyền tự chủ thì sẽ bị xử lý nghiêm minh và một số quyền tự chủ sẽ bị thu hồi.

Để giao quyền tự chủ cho cơ sở giáo dục đại học thì các trường phải thành lập Hội đồng trường. Trong dự thảo luật cũng thiết kế những điều khoản liên quan đến hội đồng trường có cơ cấu mềm dẻo và khả thi hơn những qui định trong điều lệ trường đại học. Điều này sẽ giúp cho hội đồng trường có thể được thành lập khi luật giáo dục đại học có hiệu lực.

Ngoài ra những vấn đề quan trọng khác của giáo dục đại học như xã hội hóa giáo dục, kiểm soát chất lượng đào tạo… cũng đã được điều chỉnh bởi dự thảo luật lần này. Đứng trên góc độ của những người làm công tác quản lý giáo dục đại học đồng thời cũng là những người đã từng kinh qua công tác quản lý ở cơ sở, chúng tôi thấy những vấn đề lớn của giáo dục đại học đã được luật hóa một cách chặt chẽ và đảm bảo tính khả thi.

Điều chỉnh văn bản dưới luật đơn giản hơn việc sửa luật

PV: Khi soạn thảo Luật, đòi hỏi người làm luật phải có cái nhìn dự báo tốt vì thực tế thay đổi rất nhanh chóng. Tại thời điểm này có thể phù hợp nhưng ở thời điểm 5 hay 10 năm nữa nó sẽ trở nên lạc hậu. Đối với Luật GD thì sẽ có những dự báo gì, thưa ông?

Thứ trưởng Bùi Văn Ga: Khi soạn thảo Luật, Ban soạn thảo đã nghiên cứu Luật giáo dục đại học của nhiều quốc gia tiên tiến trên thế giới. Những kinh nghiệm này giúp cho dự thảo luật có thể được áp dụng lâu dài. Trong dự thảo Luật GDĐH, ban soạn thảo trước hết bám vào định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước ta với mục tiêu đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Đào tạo nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao là một trong những khâu đột phá trong những năm sắp tới. Vì vậy những điều khoản đưa vào dự thảo Luật đều xoay quanh vấn đề đảm bảo chất lượng đào tạo. Phân tầng đại học, phân loại chất lượng đại học, phân luồng chương trình đào tạo… đã được nêu trong dự thảo luật tạo hành lang pháp lý để tổ chức lại hệ thống giáo dục đại học nước ta phù hợp với nhu cầu nhân lực phục vụ phát triển kinh tế xã hội trong những năm trước mắt và cho tương lai lâu dài.

Để đào tạo được đội ngũ nhân lực phù hợp cho nền kinh tế ngày hôm nay thì chương trình đào tạo phải bắt đầu ít nhất 5, 7 năm về trước. Vì vậy để đào tạo được đội ngũ cho nền kinh tế tri thức sau khi đất nước ta hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa, ngành giáo dục đào tạo phải tính toán ngay từ bây giờ. Dự thảo luật đã nêu những điều khoản nhà nước ưu tiên đầu tư phát triển các trường đại học theo định hướng nghiên cứu, đào tạo đội ngũ nhân lực chất lượng cao là đã tính toán đến tương lai phát triển của ngành trong nhiều thập niên tới.

Vấn đề thi tuyển sinh đưa vào dự thảo luật cũng nhắm đến tương lai lâu dài. Dự thảo luật qui định các trường được tổ chức tuyển sinh theo hình thức thi tuyển và xét tuyển. Khi chất lượng đào tạo ở bậc phổ thông tương đối đồng đều và mạng lưới các trường đại học được mở rộng thì các trường xét tuyển và sàng lọc trong quá trình đào tạo là chính. Thi tuyển chỉ còn thực hiện đối với các trường chất lượng cao, các trường đại học nghiên cứu.

Tóm lại dự thảo Luật giáo dục đại học đã được tính toán sao cho khi được ban hành thì có thể áp dụng được ngay đồng thời điều khoản của nó vẫn duy trì được giá trị trong tương lai lâu dài. Vì vậy những điều gì có thể giải quyết cụ thể thì đã được chi tiết hóa trong dự thảo luật, những điều gì chưa áp dụng được vào thực tiễn trong giai đoạn trước mắt nhưng có giá trị trong tương lai thì được khái quát hóa. Điều này giúp cho dự thảo luật có sức sống và mang tính bền vững cao.

PV: Sự kỳ vọng của xã hội đặt vào một bộ Luật để giải quyết nhiều bức xúc, liệu có quá nặng không, thưa Thứ trưởng?

Thứ trưởng Bùi Văn Ga: Dự thảo Luật GDĐH khi được ban hành, ngoài việc điều chỉnh các hoạt động bình thường của GDĐH như hiện nay, nó còn có tác dụng mạnh mẽ trong xử lý những vấn đề lớn của ngành đang được xã hội quan tâm, tạo bước đột phá để nâng cao chất lượng đào tạo.

Tất nhiên, lĩnh vực giáo dục đại học rất phức tạp và đa dạng, chúng ta khó có thể xử lý tất cả mọi vấn đề trong một dự thảo luật. Điều quan trọng là dự thảo luật đã bao quát được tất cả những vấn đề lớn, xử lý những những điểm chung nhất, những khía cạnh còn lại của vấn đề sẽ được tiếp tục được xử lý bởi những văn bản dưới luật. Khi những văn bản này đã ổn định, thì nội dung của chúng sẽ được bổ sung, đưa vào luật. Việc điều chỉnh văn bản dưới luật sẽ đơn giản hơn nhiều so với việc sửa đổi luật sau khi nó đã được ban hành.

PV: Xin cảm ơn Thứ trưởng!

Thu Hà (Thực hiện)