QĐND - Để khuyến khích người dân ở 62 huyện nghèo tham gia xuất khẩu lao động (XKLĐ) vươn lên thoát nghèo bền vững, ngày 29-4-2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh XKLĐ góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009-2020”. Tuy nhiên, qua 5 năm thực hiện, kết quả vẫn chưa được như mong đợi.
Nhận thức chưa đầy đủ về XKLĐ
Mục tiêu của đề án nhằm đưa thí điểm 5000 lao động các huyện nghèo đi làm việc ở nước ngoài giai đoạn 2009-2010 và 50.000 người trong giai đoạn 2011-2015 cùng nhiều chính sách ưu đãi về cho vay vốn lãi suất thấp, miễn phí đào tạo nghề, học ngoại ngữ, ăn ở, đi lại và giáo dục định hướng, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người nghèo đi XKLĐ.
Theo báo cáo của Cục Quản lý Lao động ngoài nước (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội), sau 5 năm thực hiện đến nay mới có gần 10.000 lao động tại các huyện nghèo đi làm việc ở nước ngoài, trong đó lao động thuộc hộ nghèo và người dân tộc thiểu số chiếm khoảng 95%. Việc đưa lao động ở các huyện nghèo đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài đang gặp rất nhiều khó khăn, lao động đưa đi đạt thấp so với mục tiêu đề ra. Bình quân 161 lao động/huyện, 9 lao động/xã, tức là chỉ đạt 30% chỉ tiêu đề án. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến số lượng lao động xuất cảnh quá thấp là có tới 33,5% lao động không đủ sức khỏe khi sơ tuyển; tỷ lệ lao động bỏ về trong thời gian đào tạo lên tới hơn 30% và 20% lao động sau đào tạo bỏ không xuất cảnh vì những lý do cá nhân.
 |
Thí sinh Việt Nam thực hành bài thi tại Kỳ thi Tay nghề ASEAN lần thứ 10. Ảnh: Đông Hải.
|
Theo bà Phạm Thị Hải Chuyền, Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, nguyên nhân chính là do nhận thức của đồng bào dân tộc thiểu số chưa đầy đủ về XKLĐ. Bên cạnh đó là ảnh hưởng của phong tục tập quán và văn hóa, những lao động là người dân tộc thiểu số chưa quen và khó chấp nhận cuộc sống xa gia đình, chưa có tác phong công nghiệp. Ngoài ra, còn hạn chế về mặt nhận thức nên khó khăn trong việc học ngoại ngữ. Vì vậy, tỷ lệ lao động bỏ về trong thời gian đào tạo khá cao, trung bình 18%, một số địa phương có tỷ lệ lao động bỏ học rất cao như: Phú Thọ (59%), Lâm Đồng (44%), Nghệ An (29%). Thêm vào đó, do một số vụ việc lao động phải về nước trước thời hạn, mức lương được chủ lao động nước ngoài trả không đúng như hợp đồng với doanh nghiệp trong nước... đã gây hiệu ứng tâm lý dây chuyền, làm một số người e ngại những rủi ro có thể xảy ra khi đi làm việc ở nước ngoài nên đã không cho người thân tham gia chương trình.
Gỡ nút thắt trong bài toán cơ chế
Không chỉ người lao động tại các huyện nghèo ngày càng ít quan tâm đến XKLĐ mà ngay cả các doanh nghiệp cũng không còn mấy mặn mà với chương trình này. Khi triển khai thực hiện Đề án 71, số lượng doanh nghiệp đăng ký tham gia chương trình khá lớn, lúc cao điểm lên tới 33 đơn vị. Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp tham gia Đề án ngày càng giảm, hiện nay chỉ còn chưa đến 10 doanh nghiệp do gặp quá nhiều khó khăn trong quá trình tuyển dụng lao động nên không ít doanh nghiệp đã bỏ cuộc.
Để đưa được một lao động là người dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo đi XKLĐ không phải là chuyện dễ dàng và phải cần đến những giải pháp đồng bộ, trong đó bài toán về cơ chế, chính sách vẫn là yếu tố then chốt. Đại đa số lao động tại các huyện nghèo đều hạn chế về nhận thức từ kiến thức cơ bản đến việc học ngoại ngữ, học nghề và chưa quen với tác phong công nghiệp. Để thay đổi được những vấn đề trên trong đồng bào dân tộc thiểu số không phải chuyện một sớm một chiều, không thể chỉ một vài tháng học nghề, học ngoại ngữ mà cần đến chiến lược lâu dài. Ngay từ khi những lao động này còn trong tuổi đến trường thì vai trò của công tác định hướng, giáo dục hướng nghiệp của nhà trường hết sức quan trọng, sẽ góp phần làm giảm bớt những khó khăn về sau cho các doanh nghiệp trong công tác tuyển chọn, đào tạo lao động đi XKLĐ.
Bên cạnh đó, theo ý kiến của nhiều địa phương, người lao động tại các huyện nghèo hiện vẫn đang khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi. Mặt khác, một vài trường hợp sau khi đã XKLĐ thành công nhưng do kinh tế suy thoái, nội chiến ở một số quốc gia phải về nước trước thời hạn mà vẫn chưa trả được hết số nợ vay nên đã tạo ra hiệu ứng tâm lý với những lao động khác. Người dân e ngại bị rơi vào trường hợp nợ chồng lên nợ. Do vậy, công tác giải quyết chính sách với những trường hợp này hết sức quan trọng. Nhiều địa phương kiến nghị Chính phủ cần có những hỗ trợ thiết thực nhất như hỗ trợ sinh kế để người dân tiếp tục phát triển kinh tế, dạy nghề, tạo việc làm để có thêm thu nhập, tăng thời hạn cho vay vốn hoặc tiếp tục đưa những lao động này xuất khẩu sang những nước khác có kinh tế phát triển, thu nhập cao hơn…
Muốn "kéo" các doanh nghiệp XKLĐ quay trở lại với Đề án 71 thì không gì khác ngoài việc ưu đãi bằng những cơ chế. Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị trực tuyến tổng kết công tác giảm nghèo toàn quốc năm 2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đã nhấn mạnh đến giải pháp hỗ trợ mạnh hơn cho các doanh nghiệp đầu tư vào huyện nghèo. Bộ Lao động-Thinh và Xã hội cũng cần có những giải pháp để vừa giữ chân những doanh nghiệp làm tốt và thanh lọc doanh nghiệp không đủ năng lực, những “cò” môi giới XKLĐ để người lao động yên tâm, tránh gây ra tâm lý hoang mang, phản ứng dây chuyền tới người lao động khác.
MINH MẠNH