Viettel đặt mục tiêu nghiên cứu sản xuất các thiết bị hạ tầng mạng viễn thông, mà trước mắt là tập trung vào công nghệ 4G để sản xuất thiết bị 4G trong năm 2016; bắt đầu lập nhóm nghiên cứu 5G; hiện thực hoá ước mơ mạng lưới viễn thông Việt Nam bằng thiết bị Made in Vietnam...Nhân dịp Tết Nguyên đán Bính Thân 2016, phóng viên Báo Quân đội nhân dân Điện tử đã có buổi trao đổi với Thượng tá Tào Đức Thắng, Phó tổng giám đốc Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel).
Thượng tá Tào Đức Thắng, Phó tổng giám đốc Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel).
Phóng viên (PV): Xin đồng chí cho biết, kết quả hoạt động của Viettel tại các thị trường nước ngoài năm vừa qua?
Thượng tá Tào Đức Thắng: Năm 2015, Viettel khai trương dịch vụ tại 2 nước là Tanzania (thương hiệu Halotel) và Burundi (thương hiệu Lumitel), đưa tổng số nước Viettel đang kinh doanh lên 10 nước, thị trường 270 triệu dân (bằng 3 lần dân số Việt Nam). Trong 10 nước thì có 6 nước đã có lãi. Các nước còn lại sẽ có lãi trong năm 2016. Doanh thu từ hoạt động tại nước ngoài của Viettel đạt gần 1,5 tỷ đôla tương đương mức tăng trưởng 25%.
Với hơn 50 triệu dân, Tanzania là quốc gia đông dân nhất trong số các thị trường nước ngoài mà Viettel đang cung cấp dịch vụ. Thương hiệu Lumitel của Viettel tại Burundi là một trong những nhà mạng có tốc độ phát triển thuê bao cao nhất trong các thị trường Viettel từng đầu tư.
Một điểm đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài, Viettel tự hào là nhà mạng luôn tiên phong cung cấp công nghệ hàng đầu tại các quốc gia mà Viettel tham gia đầu tư. Ví dụ như công nghệ 4G hiện nay Viettel đã triển khai tại Campuchia, Lào và tới đây chúng tôi sẽ triển khai tại Burundi, Cameroon, Peru…. Đó cũng sẽ là những kinh nghiệm rất tốt cho việc triển khai tiếp theo tại Việt Nam.
PV: Đến thời điểm hiện nay, doanh thu từ việc đầu tư ra nước ngoài có đi đúng lộ trình mà Viettel đã dự tính trước?
Thượng tá Tào Đức Thắng: Cho đến nay, Viettel đã nằm trong Top dẫn đầu tại 6/10 thị trường, đạt nhiều giải thưởng quốc tế lớn, đặc biệt như ở Mozambique (thương hiệu Movitel), “điều kì diệu Châu Phi” được coi là biệt danh của Movitel khi đạt tới 6 giải thưởng quốc tế lớn liên tiếp.
Đầu tư quốc tế được xác định là 1 trong 3 trụ cột chiến lược của Viettel, đó là lý do Viettel đặt mục tiêu đến năm 2020 phải đứng trong Top 10 doanh nghiệp viễn thông về đầu tư ra nước ngoài trên thế giới, từ 20 đến 25 nước, thị trường nước ngoài với dân số 600-800 triệu dân. Trung bình mỗi năm, Viettel đầu tư vào 1 đến 2 thị trường mới với tốc độ, quy mô và hiệu quả ngày càng cao. Doanh thu từ thị trường nước ngoài đang đi đúng lộ trình kế hoạch của Viettel. Chúng tôi đặt mục tiêu duy trì tốc độ tăng trường doanh thu bình quân 15-20%/ năm, mỗi thị trường sẽ thu hồi vốn trong vòng 3-5 năm.
Chiến lược của Viettel là tiếp tục phát huy thế mạnh của một tập đoàn cung cấp các dịch vụ viễn thông - CNTT hàng đầu tại các thị trường, đẩy mạnh phát triển các dịch vụ data, dịch vụ giá trị gia tăng, công nghệ thông tin trên nền tảng Internet di động và băng rộng.
Các thị trường mới sẽ được tập trung đẩy mạnh tăng trưởng nhằm nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, mang về lợi nhuận và thu hồi đầu tư trong thời gian sớm nhất. Đối với các thị trường đã đi vào kinh doanh bền vững, chúng tôi sẽ tiếp tục giữ vững đà tăng trưởng ổn định bằng cách tiến sâu áp dụng công nghệ mới để tăng cường quản lý hiệu quả và thông minh hóa các dịch vụ cho người dùng.
PV: Với những thị trường mới, xa xôi, chi phí đầu tư không nhỏ. Vậy đồng chí có thể cho biết, bình quân ở một thị trường thì mức đầu tư là bao nhiêu?
Thượng tá Tào Đức Thắng: Mức đầu tư phụ thuộc vào từng thị trường, theo quy mô, chiến lược đầu tư của Viettel tại thị trường đó. Quan điểm của Viettel là đầu tư nhanh, mạnh vào xây dựng cơ sở hạ tầng đảm bảo dẫn đầu về chất lượng và quy mô mạng lưới, làm nền tảng cho phát triển kinh doanh, mở rộng thị trường và thu hồi vốn trong thời gian ngắn nhất.
Các thị trường Viettel đầu tư hầu hết ở xa và khó khăn về mặt địa lý so với Việt Nam nên việc quản lý, tối ưu chi phí đầu tư là yếu tố được đặt lên hàng đầu trong mọi hoạt động hoạch định chiến lược và ra quyết định. Chẳng hạn như Đông Timor là một thị trường nhỏ, việc xây dựng hạ tầng mạng lưới rất khó do địa hình đồi núi hiểm trở nhưng hiệu quả kinh doanh lại rất cao (là thị trường đầu tiên của Viettel thu hồi vốn chỉ sau 6 tháng kinh doanh).
Ngoài việc tính toán kỹ lưỡng hiệu quả đầu tư, Viettel còn tập trung nhiều vào việc tối ưu chi phí vận hành thường xuyên. Về mặt nhân sự, chúng tôi tổ chức đào tạo và lập lộ trình chuyển giao việc vận hành khai thác mạng lưới tại thị trường nước ngoài cho người sở tại và rút người Việt Nam về để giảm thiểu chi phí cho nhân sự làm việc tại nước ngoài. Chúng tôi cũng đưa một số thiết bị thông minh do Viettel sản xuất sang vận hành ở một số thị trường, ví dụ như hệ thống tính cước, hệ thống quản lý doanh nghiệp để giảm thiểu chi phí đầu tư mua ngoài.
Các cách làm và kinh nghiệm được đúc kết, tối ưu qua 10 thị trường cũng được truyền đạt và áp dụng xuyên suốt, giúp các công ty ở các thị trường mới ngày càng tối ưu được hiệu quả hoạt động của mình. Chúng tôi cũng đang tăng cường áp dụng công nghệ mới, thông minh hóa các dịch vụ để nâng cao hiệu quả quản lý kinh doanh.
Ngày 15-10-2015, Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) khai trương dịch vụ viễn thông với thương hiệu Halotel tại thị trường Tanzania. .
PV: Đầu tư ở các thị trường nước ngoài cơ hội nhiều, nhưng rủi ro cũng không kém. Theo đồng chí rủi ro ở các thị trường đó là gì và Viettel đã làm gì để hạn chế những rủi ro đó? Thượng tá Tào Đức Thắng: Đầu tư vào bất cứ lĩnh vực nào và ở đâu cũng sẽ luôn tiềm ẩn rủi ro. Ngay khi bước chân ra nước ngoài, Viettel đã gặp nhiều khó khăn vì hệ thống pháp luật, tài chính và quản lý của Việt Nam chưa sẵn sàng cho việc doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. Khó khăn lớn hơn là so với các tập đoàn quốc tế khác thì Viettel đã muộn hơn họ từ 10 đến 20 năm và còn rất non trẻ về cả tiềm lực kinh tế lẫn kinh nghiệm; khó khăn về rào cản về ngôn ngữ, văn hoá; khó khăn trong việc xin được giấy phép viễn thông, cạnh tranh mạnh tại thị trường đầu tư, xu hướng doanh thu đang giảm nhanh...
Tuy nhiên, bằng kinh nghiệm 10 năm đầu tư quốc tế, chúng tôi luôn có sự chuẩn bị sẵn sàng để đối mặt với khó khăn thách thức. Trước khi đầu tư vào một thị trường, chúng tôi có những tiêu chí và cách thức tính toán, đánh giá cơ hội và hiệu quả đầu tư rồi mới đưa ra quyết định. Trong suốt quá trình đầu tư kinh doanh, chúng tôi đặt ra những đầu bài, chỉ số đánh giá hiệu quả đầu tư và các biện pháp đánh giá, dự phòng rủi ro.
Khi đầu tư vào mỗi thị trường, chúng tôi xây dựng một thương hiệu hoàn toàn mới với quan điểm đó là công ty viễn thông của người dân nước sở tại. Các sản phẩm, dịch vụ, chiến lược kinh doanh của chúng tôi đều lấy lợi ích của khách hàng làm tâm điểm để cân bằng với mục tiêu của doanh nghiệp.
Viettel quyết tâm sẽ phải đứng vị trí số 1 hoặc số 2 ở những thị trường đã đầu tư. Mục tiêu này bước đầu đã được khẳng định sau thành công của 6/10 thị trường Viettel đã vươn lên top đầu. Ở các nước này, cũng như Việt Nam, chúng tôi coi viễn thông là hàng hoá thông thường chứ không phải là dịch vụ sang trọng. Sự phát triển của một đất nước phần nào phụ thuộc vào viễn thông, chứ không phải viễn thông chỉ có thể bùng nổ khi GDP đạt một mức nhất định. Tại nhiều nước như Lào, Campuchia, Đông Timor… , khi Viettel đầu tư, đưa giá cước thấp và sản phẩm tới người dân thì viễn thông đã bùng nổ, kéo theo sự phát triển về kinh tế xã hội. Đây cũng chính là cái mà chính phủ cũng như người dân tại các nước đang phát triển đang rất cần và mong muốn có được từ nhà đầu tư nước ngoài. Viettel rất mong muốn đem tới sự phát triển bền vững của một quốc gia thông qua đầu tư viễn thông.
VĂN PHONG – THÚY MAI (Thực hiện)