QĐND Online – Sáng 7-6, Quốc hội đã nghe Báo cáo của Ủy ban thường vụ Quốc hội về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về giảm nghèo giai đoạn 2005-2012.
Báo cáo chỉ ra, thành tựu giảm nghèo có thể thấy rõ ở cả chuẩn quốc gia và quốc tế. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 14,2% năm 2010 xuống 9,6% năm 2012; ở các xã và thôn, bản đặc biệt khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 47% (2006) xuống 28,8% (2010); tại 62 huyện nghèo giảm từ 58,33% (2010) xuống 43,89% (2012). Giai đoạn 2005 - 2012 tỉ lệ giảm nghèo cả nước đều đạt và vượt chỉ tiêu, bình quân mỗi năm giảm từ 2,3 - 2,5%. Về quy mô, kết quả giảm nghèo diễn ra ở tất cả các vùng, miền, thành thị và nông thôn trong các nhóm đối tượng. Năm 2005, có 6 vùng tỉ lệ nghèo ở mức trên 20%, năm 2010 còn 4 vùng, năm 2011 còn 2 vùng và năm 2012 chỉ còn miền núi Tây Bắc có tỉ lệ hộ nghèo trên 20% (28,55%).
 |
|
Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội Trương Thị Mai trình bày Báo cáo của Ủy ban thường vụ Quốc hội về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về giảm nghèo giai đoạn 2005-2012. Ảnh: TTXVN
|
Báo cáo khẳng định, kết quả giảm nghèo đã góp phần quan trọng vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống người dân, đặc biệt là người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân; giữ vững an ninh chính trị, củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, nâng cao hình ảnh của Việt Nam đối với thế giới.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế-xã hội, hệ thống các chính sách giảm nghèo được ưu tiên xây dựng, bổ sung và dần hoàn thiện, bao phủ nhiều lĩnh vực, tác động nhiều chiều đối với cuộc sống người nghèo từ sản xuất kinh doanh đến giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe, trợ giúp pháp lý, nhà ở, nước sạch… Các chính sách giảm nghèo được phân hóa theo vùng miền, đối tượng, được ưu tiên trong phân bổ nguồn lực, theo hướng giảm dần sự ỷ lại, bao cấp từ ngân sách nhà nước, tăng dần các chính sách hỗ trợ có điều kiện, tăng cơ hội tham gia cho cộng đồng dân cư ở các địa bàn, được sự đồng thuận của xã hội, khơi dậy tốt hơn sự nỗ lực của các hộ gia đình nghèo.
Bộ máy thực hiện chính sách giảm nghèo được lồng ghép trong các cơ quan quản lý nhà nước, gắn với lĩnh vực được phân công đã tăng cường trách nhiệm của nhiều cơ quan tham gia tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo từ trung ương đến địa phương. Công tác vận động xã hội, cộng đồng tham gia giảm nghèo được đẩy mạnh đã góp phần tăng thêm nguồn lực, nâng cao trách nhiệm, tình cảm của xã hội đối với người nghèo, các địa bàn nghèo.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, Ủy Ban Thường vụ Quốc hội cũng chỉ ra, công tác giảm nghèo vẫn còn những khó khăn, thách thức đó là: Mức sống của hộ nghèo và hộ cận nghèo chưa có sự khác biệt đáng kể nên nguy cơ tái nghèo cao. Một số địa phương có tỷ lệ nghèo giảm nhưng cận nghèo tăng chưa có giải pháp khắc phục. Chênh lệch giàu - nghèo có xu hướng gia tăng, theo số liệu công bố mới nhất của Ngân hàng thế giới và Tổng cục thống kê cho thấy, hệ số chênh lệch này đã tăng đều từ 8,1 (2002) lên 9,4 (2012). Tỉ lệ nghèo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn còn cao, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm gần 50% số người nghèo cả nước. Năm 2012, các xã 135 tỉ lệ nghèo vẫn ở mức trên 40% và còn khoảng 900 nghìn hộ cận nghèo; thu nhập bình quân đầu người ở các xã này chỉ bằng khoảng 30% so với thu nhập chung khu vực nông thôn; cơ sở hạ tầng vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn vẫn còn nhiều hạn chế.
Đối với khu vực đô thị, một bộ phận người nghèo, người có thu nhập thấp có xu hướng phát sinh do quá trình đô thị hóa, di cư nông thôn - đô thị, phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức trong cuộc sống do phải bảo đảm chi phí đắt đỏ cho các dịch vụ y tế, nhà ở, giáo dục, đi lại và sinh hoạt tối thiểu. Ngoài ra, vấn đề nghèo còn chịu ảnh hưởng, tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai, rủi ro trong cuộc sống và tệ nạn xã hội.
Mặc dù chưa có số liệu thống kê, đánh giá toàn diện về tác động của di dân, tái định cư, định canh do xây dựng các công trình thủy điện, khai thác khoáng sản, xây dựng các công trình hạ tầng đối với vấn đề nghèo, song thực tế cho thấy có một số nguy cơ đang tiềm ẩn đối với nghèo đói từ những vấn đề này.
Cùng với đó, công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước cũng như nguồn lực đối với chính sách giảm nghèo còn hạn chế.
Trên cơ sở kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về giảm nghèo, giai đoạn 2005 - 2012, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã đưa ra một loạt kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ, các địa phương, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể và cộng đồng xã hội để đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng và triển khai các chính sách giảm nghèo. Hệ thống chính sách giảm nghèo sẽ điều chỉnh theo hướng tăng cơ hội để tiếp cận chính sách, tạo sự đồng thuận và chủ động tham gia của người nghèo vào quá trình thoát nghèo của mình với vai trò chủ đạo của Nhà nước và hỗ trợ của xã hội; hướng mạnh hơn vào việc đảm bảo an sinh xã hội cho người nghèo, tránh những rủi ro có thể tái nghèo.
XUÂN DŨNG