QĐND Online – Thực tế đã cho thấy mô hình cô đỡ thôn bản đem lại nhiều hiệu quả tích cực trong công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản ở vùng sâu vùng xa. Tuy nhiên, do thiếu được quan tâm, không ít cô đỡ thôn bản đã bỏ nghề. Tình trạng này sẽ được cải thiện kể từ ngày 1-5 tới đây, khi Thông tư 07/2013/TT-BYT của Bộ Y tế có hiệu lực…
Yêu cầu bức thiết
Giai đoạn 10 năm trước đây, tử vong mẹ ở khu vực miền núi rất cao. Kết quả điều tra tử vong mẹ do Bộ Y tế tiến hành năm 2002 cho thấy: Tử vong mẹ chung của cả nước là 165/100.000. Tuy nhiên, tỷ số này ở miền núi phía Bắc là 411/100.000 và miền núi trung du là 269/100.000, cao gấp hàng chục lần so với vùng đồng bằng. Báo cáo Điều tra tử vong mẹ của Vụ Sức khỏe Bà mẹ Trẻ em phối hợp với Viện Chiến lược và Chính sách Y tế tiến hành năm 2009 cũng cho thấy, mặc dù tử vong mẹ trong giai đoạn gần đây đã giảm đáng kể nhưng tử vong mẹ ở các vùng dân tộc, miền núi còn cao hơn 3 tới 4 lần so với khu vực đồng bằng. Tỷ lệ đẻ tại nhà hiện cũng vẫn còn cao ở các tỉnh khu vực miền núi, khoảng 40% tới 60%: Lai Châu 59%, Điện Biên 55%, Lào Cai 53%... Việc đẻ tại nhà, đặc biệt đẻ không được cán bộ y tế đỡ, là nguyên nhân quan trọng dẫn đến tử vong mẹ cao ở các vùng dân tộc, miền núi.
 |
Toàn cảnh Hội nghị Triển khai Thông tư số 07/2013/TT-BYT được tổ chức ngày 23-4, tại Hà Nội
|
Tại một số vùng, sự nghèo đói, giao thông khó khăn, thiếu thông tin liên lạc, tiếp cận dịch vụ y tế còn hạn chế, dịch vụ chưa phù hợp với văn hóa của đồng bào dân tộc, tập tục sinh đẻ tại nhà hoặc chỉ cho người nhà, người cùng dòng tộc đỡ đẻ là nguyên nhân quan trọng cản trở đồng bào dân tộc vùng xa xôi hẻo lánh đến sinh con tại cơ sở y tế. Việc thay đổi các yếu tố này là một quá trình lâu dài, đòi hỏi phải có sự can thiệp đồng bộ của cả hệ thống chính trị, của nhiều ngành không chỉ riêng ngành y tế. Do vậy, tỷ lệ đẻ tại nhà tại các vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo…, đặc biệt là của đồng bào dân tộc sẽ còn cao trong nhiều năm tới nếu không có sự quan tâm đúng mức của các cấp chính quyền.
Nhân lực y tế, trong đó đặc biệt là nhân lực làm công tác chăm sóc thai sản và sơ sinh ở vùng miền núi, vùng dân tộc ít người luôn thiếu trầm trọng. Hơn nữa, cán bộ y tế tuyến xã rất khó có thể thực hiện được những dịch vụ về làm mẹ an toàn và chăm sóc trẻ sơ sinh tại các thôn bản vùng núi cao và xa xôi hẻo lánh do điều kiện đi lại khó khăn, thiếu kinh phí và trang thiết bị. Các chế độ chính sách động viên khuyến khích cán bộ y tế làm việc tại vùng khó khăn còn chưa đầy đủ, chưa phù hợp.
Trên thực tế cũng cho thấy, cán bộ y tế là dân tộc Kinh khó có khả năng xâm nhập, ở lâu với đồng bào dân tộc do phong tục tập quán và các yếu tố văn hóa khác nhau. Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Viết Tiến khẳng định: “Vì thế cần phải đào tạo được người dân tộc sinh sống ở địa phương, có khả năng chăm sóc bà mẹ khi có thai và sinh con, thực hiện đỡ đẻ, phát hiện tai biến, có kỹ năng cơ bản về cấp cứu tai biến sản khoa và chuyển tuyến kịp thời.
Hành động thiết thực
Từ năm 1979, sáng kiến đào tạo cô đỡ thôn bản của Bệnh viện Từ Dũ do GS Nguyễn Thị Ngọc Phượng làm giám đốc đã đem lại nhiều kết quả tích cực. Từ năm 1998 đến nay, đã có khoảng 1.300 cô đỡ thôn bản được các chương trình, dự án khác nhau đào tạo. Hiện có khoảng 80% số này đang làm việc và có những đóng góp không nhỏ vào công tác chăm sóc bà mẹ và trẻ em, giảm tai biến sản khoa tại cộng đồng.
Tuy nhiên, từ đó đến nay, các cô đỡ chưa có chức danh chính thức trong ngành y tế, không được phân công, giám sát hỗ trợ, không được sinh hoạt chuyên môn với trạm y tế xã… Do chưa được chính thức đưa vào hoạt động trong hệ thống y tế, chưa có chức danh chính thức và chưa có nguồn phụ cấp chính thức nên nhiều cô đỡ thôn bản đã bỏ nghề.
Đây là vấn đề đặt ra yêu cầu bức thiết với ngành y tế cần sớm có biện pháp khắc phục. Ngày 1-5 tới đây, theo Thông tư số 07/2013/TT-BYT của Bộ y tế quy định tiêu chuẩn, chức năng, nhiệm vụ của nhân viên y tế thôn, bản sẽ chính thức đưa cô đỡ thôn bản là một chức danh trong hệ thống y tế Việt Nam, là một loại hình của nhân viên y tế thôn bản, được hưởng phụ cấp. Theo Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Viết Tiến, việc này nhằm “Động viên, ổn định đội ngũ cô đỡ thôn bản đã được đào tạo tham gia các hoạt động cung cấp các dịch vụ theo dõi, chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em. Đặc biệt là công tác quản lý, chăm sóc thai sản của đội ngũ cô đỡ thôn bản ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, vùng còn tồn tại phong tục đẻ tại nhà, góp phần giảm tỷ lệ tử vong mẹ và tử vong trẻ sơ sinh, giảm tai biến sản khoa tại cộng đồng”.
Ủng hộ Thông tư này của Việt Nam, bà Mandeep K. O’Brien, Quyền trưởng đại diện UNFPA Việt Nam khẳng định: “Đầu tư cho nhân lực y tế, đặc biệt là ở tuyến thôn bản là một trong những sự đầu tư đúng đắn nhất mà một quốc gia có thể thực hiện. Một điều rất quan trọng là cần đảm bảo vị thế, vai trò của cán bộ y tế thôn bản, trong đó có cô đỡ thôn bản người dân tộc. Nếu các nhân viên y tế này có đủ các điều kiện làm việc tối cần thiết, để họ có thể thực hiện các nhiệm vụ cung cấp dịch vụ y tế trong một hệ thống y tế được cung cấp các dụng cụ, vật tư y tế và thuốc thiết yếu, có hệ thông y tế tuyến trên hỗ trợ về mặt chuyên môn, cấp cứu sản khoa, bao gồm cả chuyển tuyến, chúng ta sẽ không chỉ cứu sống được tính mạng của các bà mẹ, trẻ sơ sinh, mà còn có thể cải thiện được kinh tế và xã hội của cả quốc gia. Đây là một chiến lược chi phí hiệu quả về y tế”.
XUÂN DŨNG