QĐND - Chiến tranh đã lùi xa, song nỗi đau do bom, mìn để lại vẫn từng ngày, từng giờ ám ảnh trên nhiều vùng đất. Những năm qua, Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan và trực tiếp là những đơn vị công binh chuyên trách, doanh nghiệp được Bộ Quốc phòng cấp giấy phép rà phá bom, mìn, cùng nhân dân chung sức làm “sạch hóa” đất đai, phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH). Đại tá Nguyễn Thanh Bàn, Trưởng ban Bom, mìn Bộ tư lệnh Công binh đã chia sẻ với chúng tôi về những khó khăn và giải pháp đặt ra trong thời gian tới.
 |
|
Đại tá Nguyễn Thanh Bàn.
|
Phóng viên (PV): Đồng chí đánh giá thế nào về công tác rà phá bom, mìn, vật nổ (RPBMVN) do chiến tranh để lại, trong thời gian qua?
Đại tá Nguyễn Thanh Bàn: Với sự nỗ lực của toàn xã hội, nhất là các đơn vị, doanh nghiệp quân đội, công tác RPBMVN thời gian qua đã mang lại kết quả tích cực. Trong vòng 10 năm (từ năm 2004 đến năm 2014), toàn quân đã rà phá, làm sạch hàng trăm nghìn ha đất đai chứa bom, mìn. Riêng RPBMVN phục vụ các dự án phát triển KT-XH là 312.565ha; phục vụ phân giới cắm mốc trên đất liền biên giới Việt Nam - Trung Quốc là 4.050ha, Việt Nam - Lào là 1.855,56ha và Việt Nam - Cam-pu-chia là 2.245,35ha; các Dự án 120, đường tuần tra biên giới, đường Trường Sơn Đông là 7.856ha…; xử lý hàng trăm nghìn quả bom, mìn các loại, trả lại sự bình yên cho nhiều vùng đất, giúp bà con yên tâm sản xuất; giảm thiệt hại về người, tài sản do bom, mìn, vật nổ gây ra. Nhiều dự án sau khi rà phá bom, mìn được triển khai thực hiện và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, góp phần phát triển KT-XH đất nước.
PV: Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến công tác RPBMVN là việc hết sức quan trọng. Thời gian qua, Ban Bom, mìn đã tham mưu, đề xuất những gì với Bộ tư lệnh Công binh về công tác này?
Đại tá Nguyễn Thanh Bàn: Trong những năm qua, nhất là từ năm 2011 đến nay, ban đã tham mưu cho thủ trưởng Bộ tư lệnh Công binh giao nhiệm vụ cho các cơ quan, đơn vị phối hợp với các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng xây dựng và hoàn chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động RPBMVN trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành. Chẳng hạn như Bộ Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về rà phá bom, mìn; Tiêu chuẩn quốc gia về khắc phục bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh. Đấy là những văn bản quy phạm pháp luật cao nhất, mất rất nhiều năm xây dựng. Ban cũng tham gia hoàn chỉnh hồ sơ trình Bộ Quốc phòng ký ban hành các thông tư, quy trình, định mức RPBMVN dưới biển; chủ trì thẩm định năng lực chuyên môn và khả năng thực hiện nhiệm vụ của các đơn vị, doanh nghiệp, đề nghị Thủ trưởng Bộ Quốc phòng cấp, đổi giấy phép hành nghề khảo sát, dò tìm, xử lý bom, mìn, vật nổ theo quy định và tổ chức tập huấn về quy chuẩn, tiêu chuẩn cho tất cả cơ quan chủ nhiệm công binh các quân khu, quân đoàn, quân chủng và các doanh nghiệp, các đơn vị có giấy phép. Chúng tôi đang phối hợp với Trung tâm Công nghệ xử lý bom, mìn (Bộ tư lệnh Công binh) xây dựng đề cương và một số nội dung nghị định của Thủ tướng Chính phủ thay thế Quyết định 96/2006/QĐ-TTg ngày 4-5-2006 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý và thực hiện công tác RPBMVN. Tôi nghĩ, khi hành lang pháp lý ngày càng được hoàn thiện thì công tác này cũng ngày càng được “chuẩn hóa”.
PV: Để tăng cường năng lực, trang thiết bị công nghệ đáp ứng nhu cầu thi công dự án phát triển KT-XH, thì việc “nâng cấp” trang thiết bị RPBMVN đặt ra những vấn đề gì?
Đại tá Nguyễn Thanh Bàn: Để đáp ứng yêu cầu công tác RPBMVN, ngoài nguồn lực tài chính thì nguồn lực về con người và trang thiết bị là cực kỳ quan trọng; trong đó, trang thiết bị là một trong những công cụ chủ yếu để bảo đảm tiến độ, chất lượng. Hiện tại, chúng ta cũng đã có các loại trang thiết bị RPBMVN ngang tầm với thế giới, nhất là thiết bị dò tìm dưới nước, dưới biển. Các doanh nghiệp (nhất là các tổng công ty lớn) cũng đã mua sắm rất nhiều trang thiết bị để đáp ứng nhu cầu của nhiệm vụ này. Thời gian qua, Ban Bom, mìn đã tổ chức tập huấn kết hợp giới thiệu một số chủng loại trang thiết bị mới nhằm đưa ra những thông tin để các đơn vị, doanh nghiệp tham khảo, nghiên cứu đầu tư sao cho đúng hướng và sử dụng làm sao cho hiệu quả nhất.
PV: Có ý kiến cho rằng, việc quản lý chất lượng RPBMVN đối với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài vẫn còn lỏng lẻo, đồng chí có ý kiến gì về vấn đề này?
Đại tá Nguyễn Thanh Bàn: Quả thật, việc quản lý chất lượng RPBMVN đối với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài từ trước đến nay cũng chưa thật sự được chú trọng. Thực tế cho thấy, các tổ chức phi chính phủ khi làm xong (hoặc hết nguồn kinh phí) rút về nước là gần như không còn trách nhiệm. Nếu dự án bàn giao đưa vào khai thác sử dụng xảy ra mất an toàn thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm? Vì vậy, trong những lần được làm việc, chúng tôi đã đề xuất với các tổ chức phi chính phủ rằng, họ phải có trách nhiệm về kết quả thực hiện của mình. Khi bàn giao dự án sẽ phải chiết khấu lại một phần kinh phí để “bảo lãnh” công trình. Nếu công trình tốt, nguồn kinh phí đó không sử dụng đến, sau này sẽ đưa vào quỹ chung để khắc phục hậu quả bom, mìn đối với các nạn nhân. Khi chúng tôi đề xuất như vậy, họ đều nhất trí cả.
PV: Hiện tại, các chế độ chi trả đối với các đối tượng RPBMVN còn gì bất cập, thưa đồng chí?
Đại tá Nguyễn Thanh Bàn: Hiện nay, có hai đối tượng thực hiện RPBMVN: Một là các đơn vị hạch toán (tức là các doanh nghiệp); hai là các đơn vị dự toán (là các đơn vị công binh chuyên trách). Tuy nhiên, chế độ chính sách hiện nay mới chỉ tập trung ở đối tượng là các đơn vị dự toán. Quyết định số 122/2007/QĐ-TTg ngày 27-7-2007 của Thủ tướng Chính phủ về một số chế độ với quân nhân, công nhân viên chức quốc phòng làm nhiệm vụ RPBMVN cũng chỉ mới phục vụ cho đối tượng này. Còn đối tượng là các đơn vị hạch toán, tức là người lao động, hợp đồng lao động, cán bộ thuộc các đơn vị hạch toán… thì vẫn chưa có quy định rõ ràng, mới chỉ ở dạng “vận dụng” để chi trả chế độ; trong khi đó, 80% sản lượng RPBMVN các công trình, dự án phát triển KT-XH hiện nay đều do các đơn vị hạch toán (doanh nghiệp) thực hiện. Hiện tất cả người lao động trực tiếp thực hiện nhiệm vụ RPBMVN ở các doanh nghiệp không có bậc thợ rà phá bom, mìn… Vì vậy, rất cần những văn bản, quy phạm pháp luật đủ mạnh để bảo đảm chế độ cho tất cả các đối tượng RPBMVN hiện nay. Chỉ có như vậy mới mang lại sự công bằng cho người lao động đang thực hiện nhiệm vụ đặc biệt khó khăn, nguy hiểm, độc hại này.
PV: Xin cảm ơn đồng chí!
HOÀNG GIA – MINH THẮNG (thực hiện)