Ứng dụng công nghệ sinh học được coi là “chìa khóa” tương lai của nhân loại. Vậy ngành nông nghiệp của Việt Nam đã nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học như thế nào? Phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có cuộc trò chuyện với Tiến sĩ Đỗ Tiến Phát, Trưởng phòng Công nghệ tế bào thực vật, Viện Sinh học (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) xung quanh vấn đề này.

Tiến sĩ Đỗ Tiến Phát.Ảnh: DIỆP ANH 


Phóng viên (PV): Thưa ông, đâu là sự khác biệt giữa cây trồng, động vật biến đổi gen với cây trồng chuyển gen, chỉnh sửa gen?

Tiến sĩ Đỗ Tiến Phát: Khái niệm biến đổi gen (genetic modification) dùng để chỉ quá trình tạo ra những thay đổi về vật chất di truyền của một sinh vật. Khái niệm này bao hàm tất cả các loại thay đổi về vật chất di truyền của sinh vật như thay thế từng nucleotid, thêm đoạn hay mất đoạn trình tự ADN. Ở đây chúng ta cần sử dụng đúng thuật ngữ là “cây trồng và động vật chuyển gen” hay “cây trồng và động vật chỉnh sửa gen”. Với cây trồng và động vật chuyển gen, chúng ta phải phân lập, thiết kế và đưa cấu trúc một gen ngoại lai hay gen nội tại vào trong cây hay con mà chúng ta quan tâm. Sự tồn tại và hoạt động của gen chuyển sẽ tạo ra tính trạng mà chúng ta quan tâm (kháng thuốc cỏ, kháng sâu...). Do đó, để có tính trạng mong muốn, cây trồng phải mang theo gen chuyển. Với cây trồng chỉnh sửa gen, chúng ta có thể phát triển các hệ thống chỉnh sửa gen khác nhau để tạo ra những thay đổi trong trình tự gen cũng như các vùng điều hòa khác của gen, từ đó dẫn tới sự thay đổi tính trạng theo định hướng. Với các hệ thống chỉnh sửa gen hiện nay, chúng ta dễ dàng thu được cây trồng mang chỉnh sửa (mang đột biến) gen mà không chứa gen hay yếu tố di truyền ngoại lai nào khác. 

PV: Vậy tỷ lệ cây trồng và động vật chuyển gen trong nông nghiệp của toàn cầu hiện nay là như thế nào, thưa ông?

Tiến sĩ Đỗ Tiến Phát: Cây trồng biến đổi gen được thương mại lần đầu tại Hoa Kỳ vào năm 1996. Từ đó tới nay, diện tích cây trồng biến đổi gen đã tăng trưởng đáng kể. Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng diện tích đã chậm lại do diện tích cây trồng biến đổi gen ở các nước hàng đầu đã đạt đến ngưỡng tương đối tốt. Theo số liệu thống kê, năm 2023 có 27 quốc gia trên thế giới canh tác cây trồng biến đổi gen với tổng diện tích khoảng 206,3 triệu ha, tăng 1,9% so với năm 2022. Hiện tại có khoảng 73 quốc gia đang sử dụng các sản phẩm từ cây trồng biến đổi gen làm thực phẩm và thức ăn chăn nuôi, trong đó có 27 nước châu Âu. 

Động vật chuyển gen vẫn chưa được thương mại và sử dụng phổ biến trên thế giới. Cho đến nay, các động vật chuyển gen đã được tạo ra, bao gồm chuột, chuột cống, thỏ, cá, bò, cừu, lợn, dê và gà; phần nhiều trong số đó vẫn đang trong giai đoạn đầu nghiên cứu và phát triển. Trong số này, động vật chuyển gen đầu tiên trên thị trường thực phẩm là cá hồi Đại Tây Dương có chứa gen hormone tăng trưởng, giúp phát triển nhanh, quanh năm thay vì theo mùa như cá hồi thông thường.

 Ngô biến đổi gen được trồng tại tỉnh Thái Nguyên.Ảnh: NGHINH XUÂN


PV: Hiệu quả, lợi ích kinh tế của cây trồng, động vật nuôi ứng dụng công nghệ sinh học đối với sản xuất nông nghiệp ra sao, thưa ông?

Tiến sĩ Đỗ Tiến Phát: Hiện tại, các loại cây trồng chuyển gen mang tính trạng mới vẫn đang tiếp tục được nghiên cứu, phát triển và đưa vào ứng dụng nhằm hỗ trợ nông dân trong việc giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất, cải thiện chất lượng nông sản và tạo ra nguồn thực phẩm phong phú, dồi dào cho lượng dân số ngày càng tăng cao trên toàn cầu. Bên cạnh đó, một số loại cây trồng chuyển gen giúp tăng hàm lượng dinh dưỡng như gạo vàng (giàu carotenoid) đang trở thành giải pháp hiệu quả giúp giảm suy dinh dưỡng tại một số nước châu Phi-nơi tỷ lệ mù lòa và suy dinh dưỡng của trẻ em ngày một báo động.

Công nghệ chỉnh sửa gen trên thực vật với ưu điểm nổi bật là tạo ra những tính trạng mong muốn dựa vào gen nội sinh của cây trồng là một giải pháp ứng dụng công nghệ sinh học thế hệ mới, tiềm năng, tạo ra những cây trồng mang đặc tính cải tiến về dinh dưỡng, mức độ chống chịu điều kiện bất thuận, thích ứng với biến đổi khí hậu. Một số loại cây trồng chỉnh sửa gen đã được ứng dụng nhanh chóng vào thực tế sản xuất ở nhiều quốc gia như cà chua GABA (Nhật Bản), đậu tương giàu axit oleic (Mỹ, Trung Quốc), chuối bảo quản lâu (Philippines)...

Công nghệ sinh học vẫn đang trên đà phát triển và được xem là công nghệ của tương lai. Bên cạnh các kỹ thuật như chuyển gen, chỉnh sửa gen, các đơn vị nghiên cứu và nhà khoa học trên toàn cầu đã tiếp tục khai phá tiềm năng của công nghệ này để tạo ra những phương pháp lai tạo giống mới (PBI). Đây được xem là một trong những giải pháp quan trọng của ngành nông nghiệp toàn cầu trong việc bảo đảm an ninh lương thực, giúp nông dân thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay.

PV: Ông có thể cho biết việc ứng dụng công nghệ sinh học, trong đó có cây trồng chuyển gen, chỉnh sửa gen trong sản xuất nông nghiệp của Việt Nam thời gian qua như thế nào?

Tiến sĩ Đỗ Tiến Phát: Việt Nam là nước thứ hai trong khu vực Đông Nam Á cấp phép thương mại cây trồng biến đổi gen (sau Philippines). Chính phủ Việt Nam và các cơ quan quản lý đã có khung quản lý, đánh giá cây trồng biến đổi gen tương đối khoa học, tiên tiến. 

Ngô biến đổi gen được chính thức cấp phép canh tác từ năm 2015. Nhiều báo cáo thống kê cho thấy, diện tích ngô biến đổi gen so với ngô lai truyền thống tăng dần theo từng năm. Tổng diện tích canh tác ngô biến đổi gen tại Việt Nam năm 2022 là 220.000ha, tăng 21% so với năm 2021 và chiếm khoảng 26,5% tổng diện tích ngô cả nước. Tổng lũy kế diện tích canh tác ngô biến đổi gen kể từ năm 2015 tới nay khoảng hơn 700.000ha. 

Riêng cây trồng chỉnh sửa gen ở Việt Nam mới đang ở giai đoạn nghiên cứu và phát triển. Hiện chưa có sản phẩm cây trồng chỉnh sửa gen được thương mại hóa ở nước ta.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

 

* Mời bạn đọc vào chuyên mục Kinh tế xem các tin, bài liên quan.