QĐND Online – Quy định về ngành nghề, điều kiện kinh doanh tại Điều 7, dự thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) là nội dung được nhiều đại biểu đề cập đến trong phiên thảo luận của Quốc hội tại hội trường ngày 17-5. Các đại biểu đều cho rằng, đây là môt điều quan trọng vì liên quan đến nguyên tắc doanh nghiệp được kinh doanh tất cả những ngành nghề mà pháp luật không cấm được quy định trong Hiến pháp, nên cần cân nhắc để quy định hợp lý nhất…

Đại biểu Nguyễn Lâm Thành (đoàn Lạng Sơn) khi góp ý vào Điều 7 cho rằng, trên thực tế, đã có không ít rào cản vướng mắc hay “vùng cấm” đối với hoạt động của các doanh nghiệp. Do vậy, đại biểu nhất trí với việc cần làm rõ sự thống nhất về thẩm quyền của Chính phủ đối với việc ban hành các danh mục, ngành nghề, điều kiện kinh doanh cũng như việc rà soát, điều chỉnh, bổ sung hằng năm nhằm tháo gỡ những bất cập hiện nay.

Đại biểu Quốc hội tỉnh An Giang Mai Thị Ánh Tuyết phát biểu ý kiến. Ảnh: TTXVN

Đại biểu Mai Thị Ánh Tuyết (đoàn An Giang) nhấn mạnh: “Xương sống quyết định tính khả thi của Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) lần này là danh mục ngành nghề cấm hoạt động kinh doanh cũng như ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và các điều kiện kinh doanh”. Do đó, đại biểu Tuyết đề nghị: Dự thảo luật cần cụ thể danh mục, ngành nghề cấm hoạt động kinh doanh và quy định cụ thể danh mục, nguyên tắc, thủ tục, lộ trình thực hiện, thời gian cụ thể để ngành nghề kinh doanh có điều kiện và các điều kiện kinh doanh. Cần phải thể chế hóa trong một văn bản do Chính phủ ban hành để thuận lợi cho việc tham chiếu. Đồng thời cần xem xét xử lý các phương án giải quyết các hoạt động giao thời, nhất là các hoạt động ngành nghề kinh doanh có điều kiện ở trường hợp ngành nghề kinh doanh trước đây chưa cấm nhưng Luật doanh nghiệp (sửa đổi) lần này cấm kinh doanh để tạo điều kiện cho doanh nghiệp thuận lợi sắp xếp kinh doanh có hiệu quả hơn.

Đại biểu Phùng Đức Tiến (đoàn Hà Nam) chỉ ra, Điều 7 dự thảo đã thể chế hóa nguyên tắc tự do kinh doanh quy định tại Điều 33 Hiến pháp năm 2013, đó là mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Tuy nhiên, Điều 7 dự thảo cũng còn một số vấn đề cần xem xét lại, như: Tại Điều 33 Hiến pháp năm 2013 sử dụng cụm từ "pháp luật không cấm", tại Khoản 1, Điều 7 dự thảo lại quy định doanh nghiệp có quyền tự do kinh doanh trong các ngành nghề mà luật, pháp lệnh, nghị định không cấm. Như vậy, khái niệm "pháp luật" tại Điều 33 của Hiến pháp năm 2013 được thể hiện trong dự thảo chỉ bao gồm luật, pháp lệnh và nghị định, điều này không phù hợp với Luật Ban hành văn bản quy pháp pháp luật. Từ đó, đại biểu Tiến đề nghị khoản 1, Điều 7 dự thảo nên sử dụng thuật ngữ "pháp luật không cấm" cho phù hợp với Hiến pháp.

Việc quy định các “vùng cấm” trong kinh doanh có liên quan mật thiết đến vấn đề đảm bảo quyền tự do kinh doanh đã được Hiến pháp quy định, do vậy, đại biểu Tiến kiến nghị, chỉ nên khoanh “vùng cấm” đối với những ngành nghề kinh doanh thực sự cần thiết phải cấm và những ngành nghề này phải được Quốc hội xem xét quy định ngay trong Luật Doanh nghiệp, có như vậy mới hạn chế được tình trạng cấm đoán một cách tùy tiện.

Ngoài ra, đối với những lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh cần có điều kiện và các điều kiện kinh doanh cũng phải được quy định cụ thể và thống nhất trong Luật Doanh nghiệp, không nên quy định dàn trải trong nhiều đạo luật khác nhau. Đại biểu Tiến đồng ý danh mục các ngành nghề kinh doanh có điều kiện và những điều kiện kinh doanh cụ thể giao cho Chính phủ quy định, tuy nhiên danh mục này cũng phải đảm bảo tính ổn định lâu dài, chứ không nên được rà soát, điều chỉnh định kỳ hằng năm như quy định tại Khoản 4, Điều 7 của dự thảo.

Đại biểu Đỗ Văn Vẻ (đoàn Thái Bình) lại trực tiếp đề nghị sửa khoản 3, Điều 7 thành “Điều kiện kinh doanh là yêu cầu doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện khi kinh doanh ngành, nghề cụ thể được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ ngành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu khác được quy định tại luật, pháp lệnh của Quốc hội”. Theo đại biểu Vẻ, lý do đề nghị sửa đổi như như trên là hiện nay các giấy phép con dưới các hình thức điều kiện kinh doanh đang có xu hướng ngày càng tăng. Vì vậy, quy định về điều kiện kinh doanh phải thuộc thẩm quyền của Quốc hội, không giao cho các văn bản dưới luật. Trong trường hợp cấp bách cần sửa đổi, bổ sung hoặc quy định thêm các điều kiện kinh doanh nhưng chưa thể sửa luật, pháp lệnh, nếu xét thấy cần thiết Quốc hội sẽ ban hành nghị quyết để thực hiện.

Đại biểu Phạm Thị Mỹ Lệ (đoàn Bình Phước) bảy tỏ băn khoăn với 3 nội dung trong Điều 7.

Thứ nhất, đại biểu cho rằng, quy định loại giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh là quá chung chung, gây khó khăn cho doanh nghiệp. Đại biểu đề nghị, phải quy định cụ thể giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh là những loại giấy nào.

Thứ hai, về chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp. “Dự thảo quy định phải có chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp là không hợp lý và gây khó khăn cho doanh nghiệp khi thành lập doanh nghiệp, vì giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp không phải là điều kiện bắt buộc doanh nghiệp phải có khi thành lập doanh nghiệp. Đây là trách nhiệm của doanh nghiệp phải mua sau khi thành lập doanh nghiệp” đại biểu chỉ ra, đồng thời kiến nghị nên bỏ quy định điều kiện phải có chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp.

Thứ ba, về yêu cầu khác, đại biểu nhấn mạnh: “Phải quy định rõ yêu cầu khác là những yêu cầu nào. Vì nếu không quy định rõ thì dễ tạo kẽ hở pháp luật, tạo điều kiện cho các cán bộ đăng ký doanh nghiệp nhũng nhiễu, gây phiền hà cho doanh nghiệp”.

XUÂN DŨNG