Thực tiễn áp dụng hợp đồng dầu khí của Malaysia, Indonesia

Hợp đồng dầu khí là một chế định quan trọng trong Luật Dầu khí, vì nó là văn bản pháp lý gắn liền với quá trình triển khai các hoạt động dầu khí. Các nước có ngành công nghiệp dầu khí đều có những quy định rất cụ thể về hợp đồng dầu khí, coi đây là cơ sở quan trọng cho việc thu hút đầu tư, thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp dầu khí.

 Một giàn khoan của đơn vị thành viên Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Ảnh: Petrotimes.vn

Theo tìm hiểu của chúng tôi, Malaysia đã ban hành 11 mẫu hợp đồng dầu khí để bảo đảm sự linh hoạt, qua đó khuyến khích đầu tư cho hoạt động dầu khí. Gần đây, Malaysia đang phải đối mặt với các rủi ro như tài nguyên cạn kiệt, xu hướng suy giảm sản lượng khai thác trong khi nhu cầu ngày càng tăng cao, nhiều mỏ nhỏ, mỏ cận biên (loại mỏ với trình độ kỹ thuật - công nghệ cùng với những điều kiện kinh tế - thị trường và định chế tài chính trong các hợp đồng ở thời điểm hiện tại không thể phát triển và khai thác một cách hiệu quả) chưa được phát triển vì chi phí phát triển ước tính tương tự như phát triển các mỏ lớn. Việc áp dụng các mẫu hợp đồng chia sản phẩm cho các đối tượng mỏ nhỏ, mỏ cận biên không còn hấp dẫn với nhà đầu tư. Để thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư với các mỏ nhỏ, mỏ cận biên, nhằm khắc phục tình trạng suy giảm sản lượng, Malaysia đã giới thiệu thêm hình thức hợp đồng dịch vụ rủi ro cho đối tượng mỏ nhỏ, mỏ cận biên; hợp đồng chia sản phẩm cho các tài sản cuối đời mỏ; hợp đồng chia sản phẩm cho các mỏ nhỏ theo hướng tiết giảm chi phí.

Theo Luật Dầu khí hiện hành, hợp đồng dầu khí là văn bản ký kết giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam với tổ chức, cá nhân để tiến hành hoạt động dầu khí. Hợp đồng dầu khí được ký kết dưới các hình thức hợp đồng chia sản phẩm, hợp đồng liên doanh hoặc các hình thức khác. Hợp đồng dầu khí phải tuân thủ hợp đồng mẫu do Chính phủ Việt Nam ban hành

Tại Indonesia, các hợp đồng chia sản phẩm theo cơ chế thu hồi chi phí được áp dụng qua rất nhiều giai đoạn, trong đó có những giai đoạn nhà thầu được thu hồi tới 90-100% chi phí. Dù quy định để được thu hồi chi phí rất chặt chẽ và nhà thầu phải được Chính phủ phê duyệt mới được phép thu hồi chi phí, nhưng việc thu hồi chi phí vẫn có những khó khăn nhất định. Chẳng hạn, năm 2016, khi giá dầu giảm sâu, khoản chi phí nhà thầu được thu hồi lên tới 11,4 tỷ USD, trong khi phần thu của Chính phủ chỉ là 9,29 tỷ USD. Chính vì thế, sau 51 năm thực hiện hợp đồng chia sản phẩm dầu khí theo cơ chế thu hồi chi phí, Indonesia đã mở thêm hình thức hợp đồng dầu khí mới là hợp đồng phân chia tổng doanh thu. Theo hình thức hợp đồng mới, chi phí mà nhà thầu bỏ ra sẽ không được thu hồi, mà chỉ được khấu trừ một phần khi tính thuế thu nhập.

Nên tham khảo kinh nghiệm của Malaysia và Indonesia

Theo báo cáo của Thường trực Ủy ban Kinh tế về giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi), dự thảo luật đã bổ sung quy định về nhà đầu tư đang thực hiện hợp đồng dầu khí đề xuất hợp đồng dầu khí mới trước khi hợp đồng dầu khí hết hạn. Dự thảo luật cũng đã bổ sung quy định về việc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam báo cáo Bộ Công Thương thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt chỉ định nhà thầu ký kết hợp đồng dầu khí mới trong trường hợp này và bổ sung quy định về sử dụng thông tin, dữ liệu, tài liệu, mẫu vật, công trình dầu khí và tài sản khác đã được lắp đặt, đầu tư trong cùng diện tích hợp đồng; bổ sung quy định về trường hợp chỉ định thầu. Đặc biệt, dự thảo luật đã bổ sung, sửa đổi quy định về tiếp nhận mỏ, cụm mỏ, lô dầu khí từ nhà thầu khí hợp đồng dầu khí hết thời hạn; giao Chính phủ quy định chi tiết về: hồ sơ, trình tự, thủ tục trình, thẩm định, phê duyệt kế hoạch xử lý tiếp theo đối với mỏ, cụm mỏ, lô dầu khí, nội dung kế hoạch xử lý; hồ sơ, trình tự, thủ tục trình, thẩm định, phê duyệt việc giao Tập đoàn Dầu khí Việt Nam khai thác tận thu mỏ, cụm mỏ, lô dầu khí; cơ chế tài chính tạm thời khi chưa ký kết hợp đồng dầu khí mới.

TS Phan Minh Quốc Bình, Phó Viện trưởng Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) cho biết, dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) đã nghiên cứu, xem xét các hình thức hợp đồng mới áp dụng cho các đối tượng như các dự án khuyến khích đầu tư, đặc biệt khuyến khích đầu tư trên cơ sở tham khảo thông lệ dầu khí quốc tế. Dự thảo luật cũng đã trao quyền chủ động cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam trong quá trình đàm phán hợp đồng dầu khí với các nhà thầu dầu khí để có các điều khoản thỏa thuận phù hợp với những rủi ro và thách thức cụ thể cho từng đối tượng tài nguyên. Tuy nhiên, nếu so sánh với các quốc gia trong khu vực, có thể thấy mức độ linh hoạt trong việc áp dụng các hình thức hợp đồng dầu khí của Việt Nam vẫn có phạm vi hẹp trong khuôn khổ hợp đồng chia sản phẩm dầu khí theo cơ chế thu hồi chi phí. Do đó, để tăng cường cải thiện môi trường đầu tư thì nên xem xét tham khảo kinh nghiệm của Malaysia và Indonesia trong việc đa dạng và linh hoạt các hình thức hợp đồng dầu khí phù hợp với các điều kiện đặc thù của từng loại tài nguyên.

Ông Hoàng Ngọc Trung, Phó tổng giám đốc Tổng công ty Thăm dò khai thác dầu khí (PVEP) cho rằng, trong những năm tới đây, nhiều lô hợp đồng dầu khí hết hạn và được hoàn trả về cho nước chủ nhà với trữ lượng dầu khí còn lại và sản lượng nhỏ, hiệu quả kinh tế thấp như các Lô 01&02, Lô 01&02/97 hay mỏ Sông Đốc. Thực tế đó đặt ra yêu cầu bổ sung vào dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) các quy định để đa dạng hóa hình thức hợp đồng dầu khí, không chỉ giới hạn ở hình thức hợp đồng dầu khí truyền thống như hiện nay mà cho phép áp dụng cả những hình thức khác, chẳng hạn hợp đồng cấp phép, hợp đồng dịch vụ điều hành phi lợi nhuận,… theo nguyên tắc cả Nhà nước và nhà đầu tư cùng có lợi.

Theo chương trình dự kiến, tại Kỳ họp thứ tư, ngày 25-10, Quốc hội sẽ thảo luận về một vấn đề còn ý kiến khác nhau của dự án Luật Dầu khí (sửa đổi). Sau đó, dự thảo luật sẽ được chỉnh lý theo ý kiến của đại biểu Quốc hội trước khi trình Quốc hội biểu quyết thông qua tại phiên họp ngày 14-11.

CHIẾN THẮNG