QĐND Online – Sau khi một nghiên cứu của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) công bố hồi giữa năm 2014 cho thấy năng suất lao động của Việt Nam năm 2013 thấp hơn Singapore gần 15 lần, Nhật 11 lần và Hàn Quốc 10 lần… đã đặt ra cho xã hội nhiều câu hỏi và sự lo lắng. Tuy nhiên, những phân tích của các chuyên gia trong nước đã cho thấy sự phản ánh chưa chuẩn xác của con số này với thực tế năng suất lao động Việt Nam. Con người Việt Nam đã được đánh giá là cần cù, sáng tạo trong lao động. Thực tế lao động Việt Nam làm cho các doanh nghiệp nước ngoài hay đi xuất khẩu lao động đều cho thấy năng suất lao động của họ đều không thua kém năng suất lao động của các nước. Vậy từ đâu năng suất lao động Việt Nam thấp?
Vấn đề chuyển giao công nghệ
Ngoài những lý do xuất phát điểm của Việt Nam thấp, khả năng tích lũy của nền kinh tế còn hạn chế, sử dụng nhiều lao động trong nông nghiệp và trình độ còn thấp, một trong những lý do dễ nhận thấy nhất là công nghệ sản xuất trong nước còn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Những năm gần đây, công nghệ trong nước đã ngày một hiện đại hơn, có nhiều công nghệ tiên tiến được chuyển giao từ nước ngoài vào. Việc này đã không ngừng nâng cao năng suất sản xuất trong nước.
 |
| Ảnh minh họa. Nguồn: http://vov.vn |
Nhiều chuyên gia đã nhấn mạnh, đối với các nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, chuyển giao công nghệ là chìa khóa. Và không ít chuyên gia đã chỉ ra, Việt Nam đang ở dưới đường giới hạn công nghệ nhưng có thể bắt kịp bằng cách học hỏi từ những nước khác. Các chuyên gia cũng cho biết, chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp nước ngoài là quan trọng nhưng không quan trọng bằng các doanh nghiệp trong nước. Nhưng hiện tại ở Việt Nam, việc chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau chưa hiệu quả.
Theo kết quả điều tra “Năng lực cạnh tranh và công nghệ ở cấp độ doanh nghiệp Việt Nam: Kết quả điều tra năm 2013” được công bố cuối năm 2014 cũng cho thấy, các doanh nghiệp trong nước đã nhận thức được lợi ích của việc đầu tư công nghệ và đã làm những gì có thể để nâng cao chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, nhiều trở ngại đang tồn tại có thể cản trở doanh nghiệp đầu tư ở mức thu lại được lợi ích thực sự.
Báo cáo cho thấy chỉ một số lượng nhỏ các doanh nghiệp nhận được tác động lan tỏa và tác động lan tỏa xảy ra giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau và trong tương tác của doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài. Mặc dù sự hiện diện của tác động lan tỏa giữa các doanh nghiệp trong nước là tích cực, nhưng không có dấu hiệu nào về chất lượng của chuyển nhượng, yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến lợi nhuận doanh nghiệp. Dường như tác động lan tỏa từ các doanh nghiệp nước ngoài có chất lượng cao hơn so với doanh nghiệp trong nước.
GS. John Rand và GS. Finn Tarp, Trường Đại học Copenhagen (Đan Mạch) chỉ ra, một phương pháp khác để cải tiến công nghệ là điều chỉnh công nghệ mới. Nhưng có vẻ như các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào công tác nghiên cứu và phát triển (R&D) chủ yếu nhằm phát triển các công nghệ đã có sẵn ở nơi khác. Do xác suất thất bại cao của R&D và chi phí tốn kém, có thể sẽ có lợi hơn cho các doanh nghiệp khi tiếp nhận và điều chỉnh công nghệ sẵn có thay vì đầu tư vào R&D. Điều chỉnh công nghệ có thể mang lại nhiều lợi ích hơn là nhận chuyển giao, do doanh nghiệp có thể tìm công nghệ phù hợp với điều kiện của mình, trong khi nhận chuyển giao bị giới hạn bởi trình độ công nghệ của doanh nghiệp chuyển giao và việc chuyển giao có thể còn không xảy ra. Hai giáo sư kiến nghị các chính sách nhằm thúc đẩy loại hình đầu tư này cần được xem xét nghiêm túc và nên bao gồm việc gỡ khó cho doanh nghiệp.
Doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chiếm tỉ lệ lớn
Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) gia tăng mạnh mẽ về số lượng. Cụ thể, số lượng doanh nghiệp thành lập mới năm 2014 tăng 1,63 lần so với năm 2006. Đỉnh cao là năm 2009-2010, số thành lập đạt 84.300 doanh nghiệp.
Tuy nhiên, DNNVV vẫn thiếu vốn sản xuất kinh doanh, chủ yếu dựa vào vốn tự có và khó tiếp cận vốn vay ngân hàng. Doanh thu, lợi nhuận của DNNVV đang có xu hướng giảm: Năm 2010, DNNVV chiếm 46,84% tổng doanh thu của toàn bộ khu vực doanh nghiệp, lợi nhuận trước thuế thấp chỉ chiếm 22,87% của toàn bộ khu vực doanh nghiệp. Năm 2011 doanh thu giảm, chiếm 34,0%. Năm 2012 doanh thu tăng, chiếm 43,7% nhưng lợi nhuận giảm thấp xuống tỷ lệ 7,26%. Tỷ lệ doanh nghiệp thua lỗ, chủ yếu là DNNVV tăng từ 25,14% năm 2010 lên 65,8% (2013). Tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh có lãi cũng giảm từ 64,12% năm 2010 xuống còn 34,2% (2013).
Trong một buổi hội thảo vừa được tổ chức, bà Bùi Thu Thủy, Phó cục trưởng Cục phát triển doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch Đầu tư cho biết: “Mặc dù đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, đóng góp ngân sách nhà nước và ổn định kinh tế xã hội, DNNVV Việt Nam còn rất hạn chế về quy mô, vốn, công nghệ, trình độ quản lý dẫn đến hạn chế về năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động”.
Những hạn chế cản trở sự phát triển DNNVV được chỉ ra, gồm: Thứ nhất, quy mô doanh nghiệp chủ yếu nhỏ và vừa (xét theo quy mô lao động có tới 97,7% số doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa. Xét về quy mô vốn: có tới 94,8% số doanh nghiệp quy mô vốn nhỏ và vừa. Đáng lưu ý hơn là trong khu vực doanh nhiệp tư nhân trong nước có tới 98,6% là quy mô nhỏ và vừa, trong đó chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, tỷ lệ doanh nghiệp quy mô vừa chỉ chiếm 1,6%). Thứ hai, hạn chế trong tiếp cận tín dụng (các DNNVV và mặc dù chiếm trên 98% tổng doanh nghiệp, nhưng lại hạn chế trong tiếp cận tín dụng. Dư nợ tín dụng cho DNTN tháng 3-2014 chiếm khoảng 50% tổng dư nợ (so với 16% của DNNN và 7% doanh nghiệp FDI); khoảng 30% DNNVV có tiếp cận vốn vay ngân hàng; số lượng DNNVV vay vốn từ các ngân hàng thương mại giảm hơn 1.200 doanh nghiệp trong chưa đầy 2 năm 2012-2013; tổng dư nợ cho DNNVV vay cũng giảm hơn 6.000 tỷ đồng trong vòng 9 tháng đầu năm 2013). Thứ ba, trình độ công nghệ của doanh nghiệp thấp, tốc độ đổi mới chậm và hoạt động hỗ trợ DNNVV của Chính phủ hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu.
TS Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho biết, DNNVV Việt Nam cũng giống như mọi DNNVV các nước, nhưng DNNVV Việt Nam có hai điểm yếu hơn so với các nước. Đó là cùng có số lượng như nhau nhưng DNNVV Việt Nam lại đóng góp cho GDP thấp hơn các nước và nếu nhìn chung trong nền kinh tế thế giới, DNNVV Việt Nam rất ít, DN lớn lại càng ít hơn. “Chính vì vậy, chúng ta không có nhiều lợi thế để tham gia vào chuỗi hội nhập và hiệu ứng lan tỏa của doanh nghiệp Việt Nam rất thấp cả về mặt công nghệ và kỹ năng quản trị” TS Võ Trí Thành nhấn mạnh.
Đây cũng chính là một trong những nguyên nhận quan trọng khiến năng suất lao động của Việt Nam thấp. Trong những kiến nghị của các chuyên gia nhằm khắc phục tình trạng trên, ngoài tái cơ cấu thị trường tài chính, cải thiện khả năng tiếp cận vốn cho DNNVV, nhiều chuyên gia nhấn mạnh đến việc nâng cao năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo của DN. Đẩy nhanh tiến độ triển khai các chương trình hỗ trợ chuyển giao, đổi mới công nghệ, chương trình nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa, năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Đẩy mạnh hợp tác và chia sẻ công nghệ giữa DNNVV với doanh nghiệp lớn, DNTN tư và DNNN, doanh nghiệp FDI, các tổ chức nghiên cứu và các trường đại học. Thiết lập các trung tâm thử nghiệm sản phẩm, thiết kế sản phẩm, kiểm tra nguyên vật liệu cho các DNTN, DNNVV ở một số ngành ưu tiên. Hỗ trợ phát triển thị trường công nghệ. khuyến khích và thúc đẩy hoạt động ươm tạo công nghệ, ươm tạo DN công nghệ; đẩy mạnh việc chuyển giao kết quả nghiên cứu vào sản xuất, kinh doanh, thương mại hoá.
Phát triển liên kết giữa các DNNVV và giữa DNNVV với DN lớn. Chính phủ có chính sách khuyến khích hợp tác giữa các DNNVV theo mô hình cụm, nhóm doanh nghiệp có ngành nghề chung hoặc ngành nghề bổ trợ cho nhau nhằm phát triển liên kết giữa các doanh nghiệp, tăng khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng và tăng cường năng lực cho doanh nghiệp.
XUÂN DŨNG