QĐND - Năm 2012 là một năm đặc biệt khó khăn đối với các doanh nghiệp Việt Nam, thế nhưng, khối các doanh nghiệp quân đội (100% vốn Nhà nước) vẫn có lợi nhuận tăng tới 27% và nộp ngân sách tăng 24% so với năm 2011. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, sở dĩ các doanh nghiệp quân đội "vượt bão" thành công trong năm qua là đã phát huy được lợi thế đặc thù và để tái cấu trúc doanh nghiệp quân đội, cần xét đến các yếu tố đặc thù này. Doanh nghiệp quân đội cần có lối đi riêng trong tiến trình phát triển…
Điểm sáng trong khối doanh nghiệp Nhà nước
Theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thì khối các doanh nghiệp quân đội đang là điểm sáng trong bức tranh chung của doanh nghiệp Nhà nước.
 |
Lực lượng thi công cơ giới của Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn (Bộ Quốc phòng) trên công trường xây dựng hồ Tả Trạch (Thừa Thiên-Huế)
|
Nhận định của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Lộc hoàn toàn có cơ sở. Trong khi Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) lâm vào cảnh khó khăn, nợ nần chồng chất thì các doanh nghiệp đóng tàu của quân đội như Công ty đóng tàu Hồng Hà, Công ty đóng tàu 198, Xí nghiệp liên hợp Ba Son, Sông Thu… vẫn “ăn nên làm ra”, không những không bị thua lỗ mà còn có lãi lớn. Trong khi các doanh nghiệp viễn thông “dừng chân tại chỗ”, thì Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) vẫn tiếp tục bứt phá mạnh. Trong năm 2012, doanh thu và lợi nhuận của Viettel đã vươn lên dẫn đầu các doanh nghiệp viễn thông của Việt Nam, đặc biệt, lợi nhuận đã tăng tới 40% so với năm 2011.
Cũng năm 2012, trong khi tăng trưởng tín dụng chung của toàn ngành ngân hàng Việt Nam chỉ đạt 8,9%, nợ xấu lên đến 8,6%; thì Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) đã đạt mức tăng trưởng tín dụng (bao gồm cả chi nhánh nước ngoài) lên tới 27%; nợ xấu được kiểm soát ở dưới 2% và lợi nhuận trước thuế đạt hơn 3000 tỷ đồng.
Từ nhiều năm nay, các doanh nghiệp xây dựng của Việt Nam rơi vào cảnh khó khăn chồng chất do việc làm thiếu, vốn đầu tư bị cắt giảm, thị trường bất động sản bị “đóng băng”, nhưng nhiều doanh nghiệp quân đội làm nhiệm vụ xây dựng cơ bản vẫn có mức tăng trưởng khá, điển hình là Tổng công ty Xây dựng 36. Từ năm 2002 đến nay, bình quân mỗi năm giá trị sản xuất của đơn vị tăng gấp 15 lần. Năm 2012, giá trị sản xuất đạt hơn 3000 tỷ đồng, cao hơn 40% so với năm 2011. Theo Đại tá, Anh hùng Lao động Nguyễn Đăng Giáp, Tổng giám đốc Tổng công ty Xây dựng 36, bằng uy tín và thương hiệu của mình, các chủ đầu tư đã tìm đến tổng công ty, đó là lý do vì sao Tổng công ty Xây dựng 36 không thiếu việc làm.
Theo tổng hợp của Cục Kinh tế (Bộ Quốc phòng), trong năm 2012, khối doanh nghiệp quân đội (100% vốn Nhà nước) có doanh thu tăng 11%, lợi nhuận tăng 27%, nộp ngân sách Nhà nước tăng 24% so với năm 2011. Các doanh nghiệp có quân đội góp vốn cũng đạt mức tăng trưởng cao hơn các doanh nghiệp khác cùng ngành nghề.
 |
Đóng tàu mới tại Nhà máy đóng tàu Hồng Hà (Tổng cục Công nghiệp quốc phòng).
|
Khi lợi thế đặc thù được phát huy
Nhiều người còn có quan niệm cho rằng, doanh nghiệp quân đội có lợi nhuận cao, doanh thu lớn là do được bao cấp, “nước sông, công lính”, nhưng thực tế không phải như vậy. Các doanh nghiệp quân đội đều bình đẳng với các doanh nghiệp khác theo Luật Doanh nghiệp, không hề được ưu tiên, thậm chí còn không được tham gia một số dự án có sự tham gia tài trợ của quốc tế. “Bí quyết" khiến những doanh nghiệp quân đội kinh doanh tốt chính là tính kỷ luật, cách dùng người và phát huy được vai trò, sức mạnh của công tác Đảng-công tác chính trị. Ví dụ, tại Ngân hàng TMCP Quân đội (MB), phương châm của ngân hàng là “tạo sự khác biệt và bền vững bằng văn hóa kỷ luật, đội ngũ nhân sự tinh thông về nghiệp vụ, cam kết cao và được tổ chức khoa học”. Theo Phó tổng giám đốc MB Cao Thúy Nga, yếu tố trên chính là một lá chắn ưu thế trong môi trường nhiều rủi ro. “Thời gian qua, có một thực tế nổi lên là tâm lý e ngại cho vay từ chính ngân hàng, từ chính lãnh đạo đến cán bộ tín dụng. Họ e ngại rủi ro pháp lý, rủi ro trách nhiệm khi nợ xấu tăng lên; hạn chế cho vay cũng là để tự bảo vệ mình. Còn tại MB, với lá chắn trên, trở ngại đó không lớn”- Phó tổng giám đốc Cao Thúy Nga khẳng định.
Tại Viettel, một trong 8 giá trị cốt lõi của tập đoàn này là truyền thống và cách làm của Bộ đội Cụ Hồ. Truyền thống của người chiến sĩ là có tính kỷ luật thép. Cách làm của Bộ đội Cụ Hồ là nhanh, quyết đoán, triệt để. “Quân đội có những cái mà các doanh nghiệp rất cần, như tính kỷ luật, chấp hành mệnh lệnh. Quân số của Viettel bây giờ đã lên tới 20.000 người, nếu tổng chỉ huy ra lệnh mà lệnh không triệt để thì rất khó làm. Người Viettel thừa hưởng từ quân đội truyền thống ấy”- Thiếu tướng Nguyễn Mạnh Hùng, Phó tổng giám đốc Viettel đã từng nói như vậy.
Cho đến thời điểm này, Viettel vẫn là tập đoàn duy nhất của Việt Nam không tổ chức Hội đồng quản trị mà vai trò của Hội đồng quản trị do Đảng ủy Tập đoàn đảm nhiệm. Theo Trung tướng Hoàng Anh Xuân, Tổng giám đốc Viettel, chính sự lãnh đạo chặt chẽ và nghiêm túc của Đảng ủy Tập đoàn dưới sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương đã tạo ra sức mạnh đặc thù của Viettel mà các tập đoàn kinh tế Nhà nước khác không có được...
Cần tính đến tính đặc thù khi tái cơ cấu
Quân đội tham gia xây dựng kinh tế, trực tiếp tham gia vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải là một tất yếu khách quan, là bước phát triển mới của quốc sách “ngụ binh ư nông” trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Các doanh nghiệp quân đội không những tạo ra sản phẩm cho xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động mà còn góp phần gìn giữ tiềm lực quốc phòng. Nếu có chiến tranh xảy ra, các doanh nghiệp này có thể chuyển ngay thành các trung đoàn, lữ đoàn, sư đoàn, binh đoàn, có thể tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu được ngay. Chính vì vậy, khi tái cơ cấu các doanh nghiệp quân đội phải tính đến yếu tố đặc thù và phải phát huy được lợi thế của các doanh nghiệp quân đội.
Theo Trung tướng Hoàng Anh Xuân, Tổng giám đốc Viettel, mô hình tập đoàn không tổ chức hội đồng quản trị mà tập thể Đảng ủy làm công việc tương tự như hội đồng quản trị đã phát huy hiệu quả tích cực tại Viettel, mô hình này có thể nhân rộng trong các doanh nghiệp quân đội.
Đại tá Đỗ Giang Nam, Tư lệnh Binh đoàn 12-Tổng giám đốc Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn cho biết: Mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên của các doanh nghiệp trực thuộc Binh đoàn 12 như hiện nay là phù hợp. Nếu chuyển sang mô hình cổ phần hóa, cần có thêm chính sách để duy trì một lực lượng thích hợp sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp làm nòng cốt trong việc thực hiện nhiệm vụ và giữ gìn tiềm lực quốc phòng. Đại tá Nguyễn Đăng Giáp cũng đồng tình với quan điểm này. Anh thổ lộ: "Tại Hội nghị doanh nghiệp toàn quân 2012, tôi đã đề nghị lãnh đạo Bộ Quốc phòng cho phép cổ phần hóa công ty mẹ. Đây là quyết tâm chính trị lớn, chủ động tự tái cấu trúc, áp dụng mô hình quản lý tiên tiến của thế giới. Đó còn là sự dũng cảm tự minh bạch hóa tài sản, tài chính, công khai “sức khỏe” doanh nghiệp để phát triển bền vững hơn, bảo vệ quyền lợi người lao động, phát huy nhân tài tốt hơn. Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã kết luận, nhất trí với đề nghị trên".
Theo ý kiến của nhiều chuyên gia kinh tế, hiệu quả sản xuất-xây dựng kinh tế của doanh nghiệp quân đội cần phải được xem xét tổng hợp giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả quốc phòng. Đối với các doanh nghiệp quốc phòng chuyên sản xuất vũ khí và trang bị cho quân đội, các doanh nghiệp kinh tế quân đội đứng trên địa bàn chiến lược ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo thì hiệu quả hoạt động trước hết biểu hiện ở việc bảo toàn và phát triển năng lực của doanh nghiệp, làm cho đơn vị đứng vững và từng bước vươn lên trong cơ chế thị trường, tạo ra được thế bố trí chiến lược của đất nước về kinh tế-quốc phòng-an ninh -văn hóa-xã hội. Còn đối với các doanh nghiệp quân đội chuyên làm kinh tế, phải lấy hiệu quả kinh tế làm chính. Mọi kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh phải được hạch toán đầy đủ và coi tồn tại và phát triển thông qua cạnh tranh trên thị trường là biểu hiện quan trọng của sự cần thiết tồn tại các doanh nghiệp này.
Đó cũng là “lối đi riêng” của các doanh nghiệp quân đội.
Bài và ảnh: ĐỖ PHÚ THỌ
(tiếp theo và hết)