Một thời lửa đạn với nhiều chiến công

Vóc dáng dong dỏng cao, khuôn mặt trông rất hiền, ít ai nghĩ trước đây khi tham gia kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ông Việt là một chiến sĩ quả cảm, kiên cường trong chiến đấu với nhiều chiến công xuất sắc; được kết nạp Đảng tại mặt trận. Ông và đồng đội đã kể cho chúng tôi nghe nhiều câu chuyện cảm động trong chiến đấu và tìm kiếm, quy tập HCLS. Điển hình là trận đánh ngày 21-10-1970, Dương Mạnh Việt được giao nhiệm vụ cùng Trung đội 4, Đại đội 62, Tiểu đoàn 923, Trung đoàn 766, Bộ tư lệnh 959 tập kích vào một đơn vị sĩ quan hỗn hợp đang huấn luyện tại sân bay Phu Cúm-Luông Phra-băng, Lào. Trung đội 4 của Dương Mạnh Việt bí mật đặt mìn định hướng quanh doanh trại địch. Đến 22 giờ cùng ngày, trung đội được lệnh bắn B40, B41 vào doanh trại địch và cho nổ mìn để tiêu diệt toàn bộ quân địch. Đại tá, cựu chiến binh (CCB) Trần Ngọc Mã, trú tại Tổ dân phố số 2, phường Lương Châu, TP Sông Công, tỉnh Thái Nguyên, cho biết: "Chúng tôi cùng tham gia chiến đấu và rất khâm phục hành động dũng cảm, mưu trí của đồng chí Việt".

Ngày 28-4-1972, Dương Mạnh Việt cùng hai đồng đội là Nguyễn Khiêm và Nguyễn Văn Minh được Chính ủy Trung đoàn 766 giao đặt bộc phá phá kho xăng và trận địa pháo tại sân bay Phu Cúm-Luông Phra-băng, Lào để làm hiệu lệnh cho toàn mặt trận. 22 giờ cùng ngày, Dương Mạnh Việt ra lệnh nổ bộc phá. Tuy nhiên, quả bộc phá của Dương Mạnh Việt không phát nổ mà chỉ có quả bộc phá của chiến sĩ Minh phát nổ. Lúc ấy, Dương Mạnh Việt suy nghĩ rất nhanh: “Phải tìm cách nổ bằng được bộc phá”. Nghĩ là làm, Dương Mạnh Việt cầm khẩu B41 của đồng chí Khiêm chạy thẳng đến chỗ đặt bộc phá, khi cách hơn 30m thì bóp cò. Quả đạn B41 làm kích nổ khối bộc phá. Bằng hai quả bộc phá nổ liên tiếp nhau khiến toàn bộ nhà kho cháy, nổ suốt 4 ngày đêm, phá hủy hoàn toàn trận địa pháo 105mm, 106,7mm cùng hàng trăm tấn đạn của địch.

Ông Việt và những đồng đội không bao giờ quên trận đánh ngày 2-5-1972, tập kích vào đồi A1 Phu Cúm. Trận đó, chiến sĩ Dương Mạnh Việt được giao phụ trách một mũi đột phá. Nhiều đồng chí lên đánh bộc phá đã hy sinh ngay tại cửa mở. Trước tổn thất đó, nén đau thương, Dương Mạnh Việt yêu cầu Đại đội trưởng Lù A Sề cho hai xạ thủ B40 thay nhau bắn đồi A1, yểm hộ cho mình mở hàng rào. Ông đã đánh liên tục 3 quả bộc phá ống, 1 quả bộc phá khối, mở được 5 lớp hàng rào, rồi bị thương và ngất đi. Tỉnh lại, thấy nhiều đồng chí bị thương, hy sinh; bọn địch thì hò hét xông lên phản kích, ông dùng AK bắn yểm trợ cho đồng đội chuyển thương binh, tử sĩ ra ngoài; rồi cùng đồng chí Hà Thanh Hải, quê ở xã Phú Thịnh (Đại Từ, Thái Nguyên) cũng bị thương, dìu nhau rời trận địa.  

Cựu chiến binh Dương Mạnh Việt (bên phải) tại lễ bàn giao hồ sơ liệt sĩ hy sinh tại Lào cho Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh Hủa Phăn, Lào.

Ông Trần Huy Thiết, ở xã Ký Phú, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, là đồng đội cùng tham gia trận đánh, cho biết: "Đồng chí Việt rất dũng cảm trong trận đánh Phu Cúm ngày 28-4-1972; đã đặt bộc phá, phá hủy hoàn toàn trận địa pháo của  địch. Những năm 1973-1974, đồng chí Việt được giao nhiệm vụ làm Đội trưởng Đội tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ (TKQT HCLS) thuộc Tiểu đoàn 923, Đoàn 766, Bộ tư lệnh 959, tại các địa bàn: Hủa Phăn, Xiêng Khoảng, Luông Phra-băng, Lào. Trong hai năm, vượt mọi khó khăn, gian khổ, độc hại, ông cùng toàn đội đã tìm kiếm, ghi chép đầy đủ danh tính và đưa về Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Anh Sơn (Nghệ An), Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Bá Thước (Thanh Hóa) gần 2.200 liệt sĩ với đầy đủ danh tính, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đầu năm 1975, đồng chí Việt cùng đồng đội ở Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 174, Sư đoàn 316 tham gia Chiến dịch Tây Nguyên, đặc biệt là đánh trận mở màn Buôn Ma Thuột; đã lập công xuất sắc, được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba".

Hành trình không mỏi đi tìm đồng đội

Về nghỉ hưu, cuộc sống của gia đình ông Việt cũng gặp nhiều khó khăn. Mọi chi phí sinh hoạt của 5 thành viên trong gia đình đều trông vào lương hưu của ông và quán hàng nhỏ của vợ. Nhưng được sự ủng hộ của vợ và các con, từ năm 2006 đến 2012, CCB Dương Mạnh Việt đã nhiều lần tình nguyện trở lại chiến trường xưa trên đất bạn Lào để TKQT HCLS đưa về nước. Ông kể: "Sau chiến tranh trở về địa phương, tôi mang theo một số bản đồ, sơ đồ của các nghĩa trang liệt sĩ Quân tình nguyện Việt Nam với lời dặn dò của thủ trưởng: “Đồng chí giữ cẩn thận bản đồ này, chờ đến khi có lệnh”. Suốt nhiều năm, tôi luôn đinh ninh sẽ có ngày sử dụng đến các tấm bản đồ này nên lưu giữ rất cẩn thận. Năm 2006, tôi nhận được thông tin và đã cung cấp bản đồ, hồ sơ hàng chục nghĩa trang với hơn 1.000 liệt sĩ cho các đội TKQT HCLS thuộc Bộ CHQS tỉnh Nghệ An (làm nhiệm vụ tại Xiêng Khoảng, Lào) và đội TKQT HCLS thuộc Bộ CHQS tỉnh Thanh Hóa (làm nhiệm vụ tại Hủa Phăn, Lào)".

Ông Việt đã 14 lần trực tiếp tham gia cùng các đội, giúp TKQT được 164 HCLS; tích cực tham gia xác minh thông tin thông báo cho thân nhân về danh tính liệt sĩ theo trích lục hồ sơ và giám định ADN; được thân nhân các liệt sĩ ở nhiều địa phương trong cả nước cảm ơn, coi như người thân trong gia đình. Ông bảo: "Mình cùng đồng đội chiến đấu, may mắn được trở về nên phải có trách nhiệm TKQT, đưa hài cốt của đồng đội còn nằm lại trên chiến trường về với quê hương, gia đình. Những chuyến đi nối tiếp chuyến đi. Có lần đang lên cơn sốt, nhưng nhận được điện thoại của đội TKQT HCLS đề nghị giúp đỡ, vậy là tôi lại khăn gói lên đường ngay".

Ông Việt nhớ và đọc vanh vách tên, địa chỉ của rất nhiều liệt sĩ. Ông bảo: “Có lẽ chúng tôi gắn kết với nhau ở chiến trường; sinh tử có nhau nên dễ cảm nhận được ý nguyện của nhau". Có lẽ thế mà nhiều người gọi ông bằng cái tên trìu mến: Ông Việt “hài cốt”!

Là Trưởng ban liên lạc Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào của tỉnh Thái Nguyên, ông Việt đã có nhiều công lao đóng góp xây dựng ban liên lạc vững mạnh, thực hiện tốt công tác tình nghĩa, đoàn kết, truyền thống và đối ngoại nhân dân. Đóng góp của ông đã được Đảng, Nhà nước, nhiều bộ, ngành ghi nhận với những thành tích như: Được tặng thưởng hai Huân chương Chiến công hạng Ba (các năm 1970, 1975); Huân chương Chiến công hạng Nhì (năm 1978); năm 2004 được Nhà nước Lào tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất; Huy chương Kháng chiến hạng Nhất (năm 1983); năm 2015 được Trung ương Hội CCB Việt Nam tặng bằng khen; năm 2016, được Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên tặng bằng khen; năm 2017, Trung ương Hội Hữu nghị Việt Nam-Lào tặng bằng khen...

Nghe chúng tôi hỏi ông còn ước nguyện gì không, ông Việt cười vui, nói: "Còn sức khỏe, tôi vẫn sẵn sàng cho những chuyến đi tìm kiếm, đưa đồng đội trở về Đất mẹ và mong muốn các thế hệ sau mãi mãi trân trọng lịch sử, ghi nhớ công lao, sự hy sinh của những người đi trước vì độc lập, tự do của dân tộc".

Bài và ảnh: KIM QUY - VIỆT HOA - HOÀNG GIAO