Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi chưa bao lâu, ngày 23-9-1945, thực dân Pháp đã quay trở lại xâm lược, nước ta rơi vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Để có thời gian hòa hoãn, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến “không thể tránh khỏi”, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện những sách lược sáng tạo, mềm dẻo, linh hoạt (ký với Pháp Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946 và Tạm ước ngày 4-9-1946). Nhưng với dã tâm quyết cướp nước ta một lần nữa, thực dân Pháp đã tiến hành nhiều hành động ngang ngược, bất chấp mọi thỏa thuận và nguyện vọng chính đáng được tự do, độc lập và yêu chuộng hòa bình của dân tộc ta. Vì vậy, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương phát động cuộc kháng chiến trên phạm vi cả nước, nhằm xây dựng quyết tâm đánh thắng thực dân Pháp và bọn phản động tay sai. Người nói rõ: “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa”(1). Để phát huy sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc vào cuộc chiến đấu mới, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phát trên làn sóng Đài tiếng nói Việt Nam vào sáng 20-12-1946. Mặc dù rất ngắn gọn, súc tích, nhưng sức mạnh chính trị, tinh thần - nền tảng của một cuộc chiến tranh đã lan tỏa, thấm sâu vào từng con tim, khối óc, ý chí quyết tâm chiến đấu chống giặc đến cùng của mỗi người dân Việt Nam. Chính sức mạnh chính trị, tinh thần ấy đã tạo nên những nhân tố cực kỳ quan trọng tạo nên sức mạnh chiến đấu của toàn dân ta nói chung và các lực lượng vũ trang nhân dân nói riêng. Từ đó, đã đúc thành ý chí “Quyết tử để cho Tổ quốc quyết sinh”, khơi dậy chủ nghĩa anh hùng cách mạng đến mọi tầng lớp nhân dân.

leftcenterrightdel
Cảm tử quân ôm bom ba càng chiến đấu trên đường phố Hà Nội. Ảnh tư liệu 

Trước hết, sức mạnh chính trị, tinh thần từ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến phải kể đến là sức mạnh của nền chính trị độc lập, dân chủ, cộng hòa của một dân tộc luôn yêu chuộng hòa bình, tự do, hạnh phúc mà nhân dân ta mới giành được trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Điều đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong Tuyên Ngôn độc lập: “Nước ta đã được độc lập và thực sự đã trở thành một nước tự do, độc lập”. Thành quả đó là một tất yếu lịch sử do toàn thể dân tộc Việt Nam đấu tranh kiên trì, bền bỉ dưới sự lãnh đạo của một đảng cách mạng, đó là lẽ phải không ai có thể chối cãi. Chính nền độc lập mà nhân dân ta mới giành được đó là cơ sở chính trị vững chắc lôi cuốn, động viên và trở thành động lực chủ yếu thúc đẩy, làm gia tăng tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất của toàn dân ta. Sức mạnh chính trị, tinh thần trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khơi dậy từ trong truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(2). Trên nền tảng truyền thống ấy và với tư cách là người đứng đầu nhà nước, luôn đặt mục tiêu tối thượng trong hoạt động cách mạng và phấn đấu vì nước được độc lập, dân được hưởng hạnh phúc tự do, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo kết hợp với tinh thần “Toàn thể nhân dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập của dân tộc”. Sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích dân tộc, lợi ích của nhân dân được khẳng định trong quyết tâm sắt đá của Người: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Từ lời kêu gọi đó đã tỏa ra một nguồn sức mạnh tinh thần vô cùng to lớn, động viên thúc giục toàn dân ta sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Lời kêu gọi ấy không chỉ khơi dậy truyền thống yêu nước, lòng căm thù giặc, ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, mà còn được đẩy lên tầm cao mới: Chống giặc ngoại xâm trên nền tảng nước được độc lập, nhân dân được hưởng tự do và tự quyết định đến vận mệnh của Tổ quốc.

Người kêu gọi: “Hỡi đồng bào!

Chúng ta phải đứng lên!

Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy, gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”(3). Rõ ràng, đây không chỉ là lời kêu gọi tập hợp lực lượng cho cuộc kháng chiến, mà trong đó đã chứa đựng tư tưởng của đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện”. Đồng thời, lời kêu gọi ấy đã phát huy tối đa chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân ta trong thời đại mới. Theo người, chủ nghĩa anh hùng cách mạng phải thấm nhuần trong toàn thể dân chúng, mọi giai cấp, mọi tầng lớp nhân dân, ai cũng phải tham gia kháng chiến. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân ta được chuyển biến từ lòng yêu nước, chí căm thù giặc thành quyết tâm quyết chiến và quyết thắng được Người hiệu triệu “Giờ cứu nước đã đến, ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước”(4). Tư tưởng và tinh thần ấy tiếp tục được Người khơi dậy và phát huy trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược: “31 triệu đồng bào ta ở cả hai miền, bất kỳ già trẻ, gái trai, phải là 31 triệu chiến sĩ anh dũng diệt Mỹ, cứu nước, quyết giành thắng lợi cuối cùng”(5);

Sức mạnh chính trị, tinh thần lan tỏa từ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đó là sức mạnh của cả một dân tộc khát khao được sống trong nền độc lập, hạnh phúc, ấm no, một nền hòa bình chân chính. Đó chính là nền tảng để Người thắp sáng lên niềm tin tất thắng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta để đi đến mục tiêu cao cả độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định: “Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”(6). Mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Người đã nêu trong “Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng” từ năm 1930 đã được hiện thực hóa sau 15 năm đấu tranh kiên trì, bền bỉ và giành được trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Do đó, ý chí quyết tâm kháng chiến đến cùng để bảo vệ nền độc lập của dân tộc ta được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” là sự tiếp nối và khẳng định mục tiêu xuyên suốt của nhân dân ta luôn hướng tới là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu đó luôn dẫn hướng và tạo nên sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc ta mà không địch nhân nào có thể khuất phục. Trong Lời kêu gọi đồng bào Nam Bộ đăng trên Báo Cứu quốc ngày 29-10-1945, Người đã khẳng định: “Không một súng ống nào, khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của cả một dân tộc”(7). Chính sức mạnh ấy đã trở thành niềm tin tất thắng của cả một dân tộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm để xây dựng nước ta ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.

Sức mạnh chính trị, tinh thần tỏa ra từ “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đón nhận như một luồng sinh khí mới, nội lực mới và tăng lên gấp bội. Ngay sau khi lời của Bác cất lên trên Đài Tiếng nói Việt Nam ngày 20-12-1946, hàng triệu con tim, khối óc “Con Lạc, Cháu Hồng” đã bừng lên một sức sống mãnh liệt ngay từ những ngày đầu kháng chiến. Sau khi mệnh lệnh chiến đấu của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng được phát đi, toàn quân và dân Thủ đô đã bùng lên khí thế “Hà Nội quyết tử để cho Tổ quốc quyết sinh”, những chiến sĩ của Trung đoàn Thủ đô đã gan góc chiến đấu anh dũng, những “cảm tử quân” ôm “bom ba càng” lao vào phá xe tăng địch, chặn bước tiến của quân thù. Những hình ảnh “có một không hai” đó đã thực sự giữ vững niềm tin cho nhân dân Thủ đô và cả nước chống giặc. Với khí thế ấy, từ ngày 19-12-1946 đến 17-12-1947, quân và dân nội thành cũng như ngoại thành Hà Nội đã anh dũng chiến đấu, phục vụ chiến đấu với mục tiêu bảo vệ, di chuyển các cơ quan đầu não kháng chiến của ta; máy móc, nguyên liệu phục vụ cho kháng chiến, kiến quốc ra vùng tự do một cách an toàn, làm căn cứ địa cách mạng và hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp của nhân dân ta. Tinh thần và khí thế quyết chiến, quyết thắng ấy của dân tộc ta tiếp tục từng bước được cụ thể hóa trong 9 năm trường kỳ kháng chiến anh dũng của quân và dân ta đã giành thắng lợi, kết thúc bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7-5-1954) “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, sức mạnh chính trị, tinh thần của nhân dân ta tiếp tục được Chủ tịch Hồ Chí Minh khơi dậy và phát huy trong “Lời kêu gọi cả nước tiến lên đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” vào ngày 3-11-1968. Trong đó đã hội tụ đầy đủ hồn thiêng sông núi, với nhiệm vụ thiêng liêng “Nâng cao tinh thần quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình, thống nhất Tổ quốc”. Thực tiễn đó càng minh chứng sức mạnh chính trị, tinh thần được khơi dậy từ “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh có uy lực phi thường và ý nghĩa lịch sử to lớn.

Nối tiếp truyền thống phát huy, cổ vũ  sức mạnh chính trị, tinh thần chiến đấu của quân và dân trước khi ra trận chống giặc ngoại xâm của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn (Hịch tướng sĩ); của Vua Quang Trung - Nguyễn Huệ (Hịch ra trận)... Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” phù hợp với thời điểm lịch sử, có giá trị lịch sử và thực tiễn to lớn; đồng thời đã khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh chính trị, tinh thần của toàn dân, toàn quân ta trong 9 năm trường kỳ chiến đấu và giành thắng lợi. Đó là cơ sở tiếp tục khẳng định con đường, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta; nhận rõ âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, kiên quyết đập tan ý định xâm phạm đến độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta. Sức mạnh chính trị, tinh thần lan tỏa từ “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn vang vọng, tiếp tục thúc giục hơn 90 triệu người dân Việt Nam ở trong nước và hàng triệu kiều bào ta ở nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc thân yêu, luôn giữ vững và phát huy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, góp công sức, trí tuệ vào sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.

Tài liệu tham khảo:

- (1),(3),(4),(6),(7). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 4, tr. 534, 89.

- (2), Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 7, tr. 38.

- (5). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 15, tr. 412.

Đại tá, TS NGUYỄN SỸ HỌA, Phó chủ nhiệm Khoa Mác – Lê-nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Lục quân