 |
Đại tướng Văn Tiến Dũng |
Trong hai cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc ta, có một vị tướng mà tên tuổi của ông đã gắn với những trận đánh đi vào lịch sử, đó là Đại tướng Văn Tiến Dũng.
Gần 70 năm hoạt động cách mạng liên tục, kiên cường, Đại tướng Văn Tiến Dũng trở thành nhà quân sự chiến lược có uy tín của quân đội ta; là một trong những vị tướng chỉ huy xuất sắc; là người lãnh đạo đầy tinh thần cách mạng tiến công, đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của chiến tranh nhân dân ta qua các cuộc kháng chiến và đối với nền khoa học nghệ thuật quân sự cách mạng Việt Nam. Đúng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: "Đồng chí Văn Tiến Dũng là một trong những tướng lĩnh tài năng xuất sắc của quân đội ta, là người học trò ưu tú của Chủ tịch Hồ Chí Minh". Chính những năm tháng hoạt động cách mạng của ông cùng với các vị tướng tài ba của quân đội ta là những bước thể nghiệm thành công những vấn đề về lý luận quân sự của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện thực tiễn chiến tranh Việt Nam. Từ lý luận đến thực tiễn và từ thực tiễn bổ sung hoàn thiện thêm lý luận đã được Đại tướng thể hiện thành công qua các tác phẩm hồi ký, luận văn quân sự, những bài viết, huấn lệnh, chỉ thị… có giá trị trong quá trình chỉ đạo đấu tranh và tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Đáp ứng nguyện vọng thiết tha của đông đảo bạn đọc muốn có trong tay cùng một lúc nhiều tác phẩm của Đại tướng, tháng 4 năm 2007 Nhà xuất bản Quân đội nhân dân cho ra mắt bạn đọc cuốn "Tuyển tập Đại tướng Văn Tiến Dũng", sách dày 1.092 trang, khổ 19x27. Đây là một trong những công trình lớn của Nhà xuất bản Quân đội nhân dân thiết thực chào mừng kỷ niệm 32 năm giải phóng miền Nam (30-4-1975/30-4-2007). Nội dung của ấn phẩm gồm 4 phần chính: Phần một "Đi theo con đường của Bác"; Phần hai "Về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước"; Phần ba "Đại thắng mùa xuân"; Phần bốn "Chiến tranh nhân dân, Quốc phòng toàn dân".
Tháng 4 năm 1945 trong Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ do Trung ương Đảng triệu tập, ông được cử vào Ủy ban quân sự cách mạng Bắc Kỳ (Bộ tư lệnh miền Bắc Đông Dương) cùng với các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh, Lê Thanh Nghị, Chu Văn Tấn. Đồng thời được chỉ thị trong thường trực của Ủy ban hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thường vụ Trung ương Đảng và phụ trách trực tiếp chấn chỉnh tổ chức Chiến khu Quang Trung gồm các tỉnh Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, thành lập các đơn vị Cứu quốc quân, chuẩn bị và tiến hành Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám giành chính quyền ở các tỉnh kể trên. Theo chỉ thị của Trung ương tổ chức Chiến khu II, tháng 11 năm 1945, ông được cử làm Chính ủy Bộ Tư lệnh khu, vừa chỉ đạo một số đơn vị của khu “Nam tiến” đánh Pháp, vừa chỉ đạo các cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp từ Vân Nam (Trung Quốc) và từ Sầm Nưa (Lào) tiến công vào Lai Châu, Sơn La.
Tháng 1 năm 1951, sau chiến dịch giải phóng Biên giới Việt-Trung, ông được Trung ương Đảng và Bộ Tổng tư lệnh cử ra thành lập và làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Đại đoàn chủ lực 320-một đại đoàn hoạt động trong vùng địch kiểm soát ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Tháng 11 năm 1953, sau chiến dịch phản công liên tiếp của quân và dân ta đánh bại cuộc hành quân Hải Âu của quân đội Pháp ra tây nam Ninh Bình kết thúc, ông giữ chức Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam và tham gia Tổng quân ủy. Mùa xuân 1971, ông trực tiếp chỉ đạo Mặt trận Đường 9-Nam Lào đánh bại cuộc hành quân “Lam Sơn 719” của quân ngụy Sài Gòn chiếm đóng để cắt đường chiến lược Hồ Chí Minh nối liền Nam-Bắc. Tháng 3 năm 1972 chỉ đạo chiến dịch xuân-hè tiêu diệt sư đoàn ngụy Sài Gòn cùng toàn bộ hệ thống phòng ngự của địch giải phóng tỉnh Quảng Trị.
Từ những năm 60, nhất là từ năm 1964 đến khi Hiệp định Pa-ri được ký kết (1-1973), ông đã cùng các đồng chí trong Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo trực tiếp việc tổ chức huấn luyện và hoạt động của các lực lượng vũ trang nhân dân trên cả nước. Đặc biệt đã xây dựng và chỉ đạo các lực lượng phòng không-không quân, hải quân làm nòng cốt cho chiến tranh nhân dân của ta đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ ra miền Bắc Việt Nam mà đỉnh cao là chiến thắng 12 ngày đêm (18 đến 29-12-1972) trước không quân chiến lược B52 của Mỹ đánh phá Hà Nội, Hải Phòng. Mùa xuân 1975, ông trực tiếp chỉ đạo chiến dịch giải phóng toàn bộ Tây Nguyên, mở đầu bằng trận đánh Buôn Ma Thuột gây hoang mang cho địch ở cả miền Nam. Sau đó ông được cử làm Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Với kinh nghiệm của một vị tướng đã dạn dày trận mạc, ông đã chỉ đạo những lối đánh táo bạo, thọc sâu, kết hợp vu hồi, đột phá, biết tạo thời cơ, nắm thời cơ, chủ động tiến công tiêu diệt địch, giải phóng Sài Gòn-Gia Định, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
"Tuyển tập Đại tướng Văn Tiến Dũng" là những trang viết về những năm tháng hào hùng, những khúc tráng ca bất tử về quân đội và nhân dân Việt Nam anh hùng trải qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đại tướng đã phân tích sâu sắc những tư tưởng, chủ trương, đường lối lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh của ta, những âm mưu, thủ đoạn của địch. Nêu lên nghệ thuật tạo thời cơ và nắm vững thời cơ thực hành các chiến dịch. Làm sáng tỏ tư tưởng cách mạng tiến công và nghệ thuật chủ động tiến công quân địch trong mọi tình huống.
PHAN NGỌC DOÃN