 |
Đại tướng Võ Nguyên Giáp |
"Nhà chính trị đi trước nhà quân sự"
Đó là cách định nghĩa của Đại bách khoa toàn thư Pháp (1987) về Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Người Việt Nam ta có thể hiểu đó là một cách nói lên sự thấm nhuần của Võ Nguyên Giáp về một điểm cơ bản của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh ngay từ những năm đầu thập kỷ 40 của thế kỷ XX, cụ thể là về mối quan hệ giữa chính trị và quân sự, nhân dân và quân đội, người và súng, tinh thần chiến đấu và trang bị kỹ thuật. Người trước - súng sau là quan điểm Cụ Hồ đã nhấn mạnh ngay từ những ngày đầu Võ Nguyên Giáp gặp Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Hầu hết cán bộ quân sự Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp đều bắt đầu cuộc đời cách mạng bằng những hoạt động chính trị và khi chuyển sang lĩnh vực quân sự thì một số khá đông đã là đảng viên cộng sản, những cán bộ chính trị mặc áo lính, hoạt động quân sự nhằm mục tiêu chính trị của Đảng, mục tiêu giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Ông Giáp là một trường hợp điển hình. Ông đã từng là đảng viên cộng sản, một nhà chính trị nhiều năm trước khi lãnh sứ mệnh cầm quân.
Trong quá trình vận động chính trị quần chúng mà Cụ Hồ gọi là "nhóm lửa", suốt mấy năm trèo đèo lội suối đem ánh sáng cách mạng đến với đồng bào vùng cao trong liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng, là quãng thời gian ông Giáp nhận thức ngày càng rõ hơn về vai trò cách mạng của quần chúng. Trong đông đảo nhân dân các dân tộc được ông giác ngộ không ít người đã trở thành cán bộ lãnh đạo ở địa phương hoặc trở thành chiến sĩ Quân giải phóng sau khi nhận thức được mục đích chính trị của việc cầm súng. Từ đó, yếu tố nhân dân càng "bám rễ" sâu vào tư duy quân sự cách mạng của Võ Nguyên Giáp.
Trải qua nhiều năm kiên trì đến với dân, đến khi cách mạng đã có chỗ đứng chân trong nhân dân rồi, Hồ Chí Minh mới giao cho Võ Nguyên Giáp nhiệm vụ tổ chức Đội quân giải phóng. Buổi đó Cụ dặn: Dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì không kẻ thù nào có thể tiêu diệt được. Cho nên thật dễ hiểu vì sao bản lĩnh của nhà quân sự Võ Nguyên Giáp trước hết là bản lĩnh của nhà chính trị Võ Nguyên Giáp, người nhận thức đúng đắn về vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng, nhận thức về mối quan hệ giữa hoạt động quân sự với mục đích chính trị của Đảng, nhận thức về quan hệ cá nước giữa lực lượng vũ trang với quần chúng nhân dân. Ngay từ những ngày đầu nhận nhiệm vụ tổ chức quân đội, ông đã dạy cho đội vũ trang tuyên truyền nhỏ bé mới lọt lòng biết rằng mọi hoạt động quân sự đều phải nhằm mục đích phát triển phong trào chính trị quần chúng và không được làm tổn hại đến phong trào chính trị quần chúng. Ngay từ buổi đầu, trong Mười lời thề, ông đã dạy cho các chiến sĩ du kích những điều cần làm và những điều cần tránh để duy trì mối quan hệ quân dân cá nước. Trong quá trình chuẩn bị tiến lên khởi nghĩa vũ trang, mọi hoạt động của Đội vũ trang tuyên truyền đều hướng vào mục tiêu chính trị là động viên toàn dân đứng lên đánh Pháp đuổi Nhật, giải phóng dân tộc. Tuy thời kỳ tiền khởi nghĩa chỉ diễn ra trong vòng gần nửa năm, nhưng khẩu hiệu Khơi thêm nước cho cá vẫy vùng do Tổng bộ Việt Minh đề xướng đã giúp cho Đội quân giải phóng hiểu môi trường chính trị quần chúng quan trọng như thế nào đối với sự tồn tại, phát triển và hoạt động của đội vũ trang. Qua các trang viết của Võ Nguyên Giáp về những năm 1940 - 1945, cụ thể là các tác phẩm Khu Giải phóng, Kinh nghiệm Việt Minh ở Việt Bắc, người ta thấy nổi lên một điều, đó là yếu tố chính trị quần chúng luôn được ông hết sức coi trọng trong suốt quá trình vận động chính trị quần chúng tiến lên vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền.
Sau Tổng khởi nghĩa, việc xây dựng cơ sở chính trị quần chúng làm chỗ đứng chân cho cách mạng, nơi nương tựa để hoạt động của các tổ chức vũ trang…, lại được ông tiếp tục coi trọng trong điều kiện mới, điều kiện đất nước đã giành được chính quyền nhưng ngay sau đó chính quyền non trẻ ở nhiều địa phương không tồn tại trước sức ép từ nhiều phía của các loại kẻ thù. Kiên trì cử các đội vũ trang tuyên truyền lên Tây Bắc ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng để gây dựng cơ sở chính trị quần chúng; gợi ý cho cấp chỉ huy chiến trường Khu 5 phân tán một số đơn vị vũ trang đi vào vùng địch kiểm soát ở Nam Trung Bộ để vũ trang tuyên truyền, tranh thủ nhân dân, duy trì cho được thế mất đất không mất dân; đặc biệt quan tâm chỉ đạo cuộc đấu tranh để duy trì và phát triển cơ sở chính trị và vũ trang trong vùng sau lưng địch trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là ở các vùng dân tộc thiểu số Tây Nguyên, Đông Bắc và Tây Bắc Bắc Bộ, ở Thượng Lào, ở vùng đồng bào công giáo đồng bằng nam sông Hồng…, tất cả những biện pháp chiến lược đó đều chứng minh sự quan tâm của Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đến cơ sở chính trị quần chúng trước và trong chiến tranh. Khi quân ta chuyển lên đánh lớn, nhất là khi mở những chiến dịch trong hoặc gần vùng đông dân, bao giờ mục đích chiến dịch cũng có một nội dung quan trọng là tranh thủ nhân dân. Chiến dịch mở ra trong những vùng dân cư đặc biệt, như Tây Bắc, Thượng Lào, Hà Nam Ninh, bên cạnh mệnh lệnh quân sự bao giờ cũng kèm theo những điều quy định về kỷ luật dân vận. Điều đó giải thích vì sao khi quân ta về chiến đấu trong vùng như Phát Diệm, đồng bào giáo dân sớm nhận thấy bản chất anh bộ đội Cụ Hồ khác hẳn những điều mà bà con bị chính quyền tay sai tuyên truyền xuyên tạc và các tầng lớp giáo dân sớm tỏ thái độ đồng tình và ủng hộ kháng chiến. Sau mỗi chiến dịch, trong chỉ thị của Tổng tư lệnh về củng cố vùng mới giải phóng, bao giờ cũng đề cập đến nhiệm vụ bảo vệ nhân dân, đề phòng địch trở lại khủng bố càn quét, đồng thời với nhiệm vụ nhanh chóng ổn định đời sống chính trị xã hội của địa phương, cải thiện đời sống nhân dân.
Nhìn trên phạm vi toàn cục, quan hệ quân dân cá nước đã trở thành truyền thống của quân đội và nhân dân ta, trong thời chiến cũng như trong thời bình. Đạt được kết quả đó, ngoài yếu tố có tính quyết định là sự lãnh đạo và giáo dục chung của Đảng và của các tổ chức chính trị trong Mặt trận, việc Tổng tư lệnh kiêm Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp quan tâm chỉ đạo các tổ chức Đảng và hệ thống công tác chính trị trong quân đội để giữ vững kỷ luật dân vận có ý nghĩa rất quan trọng để duy trì và củng cố mối quan hệ quân dân đoàn kết giết giặc cứu nước. Điều đó giải thích vì sao, ở tiền tuyến cũng như ở hậu phương, trong tác chiến cũng như trong xây dựng, bộ đội Cụ Hồ dưới quyền chỉ huy của Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp luôn được nhân dân ủng hộ. Ông đã giáo dục cho quân đội thấm nhuần một chân lý mà Cụ Hồ đã dạy: yếu tố chính trị quần chúng là chỗ dựa không thể thiếu trong bất kỳ hoạt động quân sự nào của quân đội cách mạng, quân đội của nhân dân.
Trong quan hệ với các nước bạn (Lào, Cam-pu-chia, Trung Quốc) có liên quan đến lĩnh vực quân sự trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, bao giờ Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp cũng quan tâm đến yếu tố chính trị đối ngoại bình đẳng, hữu nghị, coi trọng tinh thần quốc tế cao cả. Trước những ý kiến khác biệt về chủ trương tác chiến giữa Bộ Tổng tư lệnh với cố vấn Trung Quốc (như đánh Đông Khê hay Cao Bằng khi mở màn chiến dịch Biên giới, chủ trương mở các chiến dịch Hòa Bình và Sầm Nưa, cách đánh trong chiến dịch Điện Biên Phủ…), Tổng tư lệnh đều dùng phương pháp thảo luận, thuyết phục, nhằm tranh thủ được sự đồng tình của bạn, không làm mất lòng bạn nhưng vẫn bảo vệ được tính độc lập tự chủ của ta. Nhà sử học Pháp Gioócgiơ Buđaren coi đó là tầm cỡ nhà chính trị vĩ đại Võ Nguyên Giáp bên cạnh nhà quân sự lỗi lạc Võ Nguyên Giáp. Đối với các đơn vị quân tình nguyện hoạt động trên đất Lào cũng như với Ban cán sự Đảng ta ở Lào, Tổng tư lệnh luôn nhắc nhở tinh thần quốc tế trong sáng, giúp bạn như giúp mình, đồng thời phê bình tác phong bao biện làm thay, không tin tưởng và quan tâm giúp đỡ đào tạo cán bộ của bạn để anh em đủ trình độ gánh vác công việc của cách mạng Lào, giúp nhân dân nước bạn đánh giặc nhưng không quan tâm đầy đủ việc cải thiện đời sống của bà con…
Từ bài học thắng lợi của hai cuộc kháng chiến, trong bài giảng về Đường lối quân sự của Đảng, khi nói về địa vị và tác dụng của lực lượng chính trị quần chúng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói: "Lực lượng chính trị quần chúng là cơ sở để xây dựng và phát triển lực lượng mọi mặt của cách mạng, của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng…, là cơ sở để xây dựng và phát triển các lực lượng vũ trang cách mạng. Nó là chỗ dựa vững chắc cho lực lượng vũ trang nhân dân tác chiến".
Thành công của Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp trong hơn 30 năm cầm quân trước hết là thành công của một nhà chính trị, thành công của sự khẳng định hoạt động quân sự phải phục vụ cho mục tiêu giải phóng dân tộc của Đảng, thành công của quan điểm luôn khẳng định sức mạnh của toàn dân là yếu tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng; đó đồng thời cũng là thành công của một nhà quân sự thường xuyên quan tâm giáo dục cho toàn quân truyền thống cội nguồn từ nhân dân mà ra và mục tiêu vì nhân dân mà chiến đấu, thường xuyên quan tâm duy trì, củng cố và phát triển quan hệ quân dân cá nước, để quân đội luôn sống trong lòng dân, được nhân dân tin yêu đùm bọc giúp đỡ, dù ở tiền tuyến hay hậu phương, thời chiến hay thời bình.
Cụ luật gia Vũ Đình Hòe, một nhân sĩ trí thức tham gia chính quyền cách mạng ngay từ những ngày đầu, đã nói về một khía cạnh chính trị khác trong con người nhà quân sự Võ Nguyên Giáp. Vũ Đình Hòe kém Võ Nguyên Giáp một vài tuổi (1913/1911). Cả hai ông đều là những thành viên của Quốc hội đầu tiên và là hai thành viên cuối cùng còn sống. Trong Chính phủ đầu tiên, Cụ Hòe là Bộ trưởng Giáo dục, sau đó là Bộ trưởng Tư pháp. Trong một lần trả lời phỏng vấn của báo Văn Nghệ về Võ Nguyên Giáp cuối năm 2005, Cụ nói:
"Chính tư duy chiến lược quân sự - chính trị cùng với lòng nhân ái bao la của Bác Hồ đã thấm vào trí não, tâm can của vị Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp, người học trò gần gũi và "ngoan ngoãn" nhất của Bác…
Nhờ hiểu được và nhờ vận dụng phương pháp duy vật biện chứng Mác-Lênin mà anh Giáp học được ở Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, cho nên Võ Nguyên Giáp không sa vào những mớ lý luận suông, chung chung, không sa vào giáo điều, tả khuynh…
Theo tôi, điều căn bản nữa cần phải nêu, là Võ Nguyên Giáp đã luôn luôn cố gắng noi theo tinh thần đại đoàn kết toàn dân của Hồ Chí Minh, đại đoàn kết vì đại nghĩa, vì chí nhân, cho nên anh Văn được toàn quân tin yêu và nhờ cậy…Cho đến nay, anh Văn vẫn được những người trí thức và toàn dân quý mến, kính trọng, được cả thế giới hâm mộ…".
Sử gia nước ngoài khi viết về hai cuộc kháng chiến của Việt Nam và về Quân đội nhân dân Việt Nam, cũng thường đặc biệt quan tâm đến "chất chính trị trong nhà quân sự Võ Nguyên Giáp". Điển hình là trường hợp Jean Lacouture. Ông là nhà văn, nhà báo, phóng viên chiến trường, có mặt ở Việt Nam ngay từ những ngày đầu chính quyền cách mạng và là một trong những người được ông Giáp tiếp rất sớm, chỉ ít ngày sau Tổng khởi nghĩa. Khi đó cuộc thương lượng Việt-Pháp đã bắt đầu nhưng vẫn còn diễn ra bí mật. Jean Lacouture sớm có những công trình viết riêng về Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, ví như Điều tra về một tác giả, hoặc Võ Nguyên Giáp - Một bức chân dung…
Viết về cuộc gặp đầu tiên đầu tháng 2 năm 1946, sau khi nghe Võ Nguyên Giáp nói về quyết tâm chiến đấu vì mục tiêu chính trị của chiến tranh là độc lập dân tộc, Jean Lacouture nhận xét rằng:
"Ông Giáp nói về "độc lập" như một yêu cầu tối hậu. Ông cho hay, nếu không đạt được, Việt Minh sẽ phát động chiến tranh. "Chúng tôi không cho phép mình dừng bước bởi một hi sinh, bạo lực hay tàn phá". Ông nhấn mạnh, điều này nên gây một ấn tượng mạnh đối với tôi. Con người này đâu chỉ là một nhà chính trị, càng không phải là một kẻ cơ hội. Ông là một chiến sĩ của một trào lưu hùng hậu.
Tháng 3 năm 1946, khi tiếp xúc với đối thủ đầu tiên, Đại tướng Pháp Philip Lơcle, ông Giáp lại nói đến mục tiêu chính trị của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Ông nói: "Tôi là một người cộng sản, chiến đấu cho độc lập của đất nước chúng tôi…". Tất nhiên ngay lúc đó, tướng Lơcle - một viên tướng chuyên nghiệp cầm đầu đội quân viễn chinh xâm lược Pháp - không thể hiểu hết chiều sâu câu nói thốt ra từ một nhà chính trị đảm nhiệm công tác quân sự của chính quyền cách mạng Việt Nam. Ý chí, quyết tâm và tinh thần dân tộc gói gọn trong câu nói đó.
(Còn nữa)
TRẦN TRỌNG TRUNG