Từ tháng 7-1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ ký kết cho đến cuối năm 1964, đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt giữa ta và địch. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua nhưng những câu chuyện đôi bờ Hiền Lương ngày ấy vẫn không phai mờ...

Cuộc chiến màu cầu

Cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải tại km 735 trên đường thiên lý Bắc-Nam, là dấu mốc chia cắt đất nước. Bến Hải là do người Pháp gọi từ một địa danh ở thượng nguồn, có tên là Bến Hai. Sông Bến Hải xưa tên là Minh Lương. Đó là tên của một làng, nơi hợp lưu hai sông Bến Hải và Sa Lung. Thời Minh Mạng, do húy chữ “Minh” nên tên làng, tên sông đều đổi thành Hiền Lương. Cầu Hiền Lương do Pháp xây dựng lại năm 1952, dài 178 mét, 7 nhịp, trụ bằng bê tông cốt thép, mặt cầu lát gỗ thông, rộng 4 mét...

Toàn cảnh cầu Hiền Lương những năm 60, thế kỷ 20.

Từ khi sông Bến Hải trở thành giới tuyến, cầu Hiền Lương cũng bị chia đôi. Giữa cầu được vạch một đường chỉ ngang, sơn trắng, làm ranh giới hai miền. Mỹ-ngụy âm mưu dùng màu sơn để chia cắt đất nước ta, chúng sơn màu xanh nửa cầu phía Nam. Chúng vừa sơn xong đầu hôm, thì trong đêm, công an của ta sơn lại cầu bằng màu xanh cho cùng màu. Vài hôm sau chúng sơn chia cắt bằng màu nâu. Cứ thế cầu Hiền Lương luôn thay đổi màu sắc. Nhà văn Nguyễn Tuân đã đến trên cầu Hiền Lương, ông viết: “Cầu chia làm hai phần, mỗi bên dài 89 mét, sơn hai màu khác nhau. Bờ bắc gồm 450 tấm ván mặt cầu, bờ nam 444 tấm”. Hễ địch sơn một màu khác để tạo ra hai màu đối lập, thì lập tức ta xóa đi, thành một màu chung. “Cuộc chiến màu cầu” kéo dài mấy năm trời, cuối cùng kẻ địch phải chịu thua, để chiếc cầu chung một màu sơn thống nhất!

Đồn liên hợp cứ xây, cứ phá

Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, mỗi bên cầu có hai đồn cảnh sát: đồn Hiền Lương, Cửa Tùng ở bờ Bắc và đồn Xuân Hòa, Cát Sơn ở bờ Nam, thường gọi là Đồn liên hợp. Số cảnh sát mỗi đồn quy định không quá 20 người. Hằng tháng vào ngày chẵn, một tổ 3 cảnh sát của ta mang sổ trực qua cầu sang bờ Nam. Vào ngày lẻ, một tổ 3 cảnh sát ngụy sang bờ Bắc trao đổi công tác. Ở đồn Cửa Tùng, mỗi tuần cảnh sát hai bên “đổi bờ” một lần với một tổ 6 người. Mỗi đồn thường xuyên có hai người trực, một ta một địch. Đến cuối tuần, hai bên cùng ký biên bản đổi bờ. Cuốn “sổ trực ban” đồn Cửa Tùng hiện vẫn còn được lưu giữ tại phòng truyền thống Vĩnh Linh. Gọi là đồn liên hợp nhưng cảnh sát ngụy thì luôn luôn gây thù hằn, chia rẽ. Rất nhiều lần cảnh sát ngụy nói xấu chế độ miền Bắc, đi đứng nghênh ngang, nói năng tục tĩu. Tháng 4-1955, một tổ cảnh sát ngụy sang bờ Bắc làm việc. Chúng lân la đến tổ dệt xăm (lưới) của phụ nữ Vĩnh Quang, nói xấu miền Bắc, lập tức bị các chị đáp lại thẳng thừng: “Các anh có mắt như mù, Mỹ-ngụy không độc ác sao có luật 10-59”? Vào dịp Tết năm 1960, cảnh sát ngụy qua đổi gác, chúng đến trường học phát kẹo cho học sinh, bị các em ném trả: “Cháu Bác Hồ không biết ăn kẹo Mỹ-Diệm!”.

Cầu Hiền Lương sau khi được phục chế.

Điều trớ trêu là chiến sĩ công an ta phải cùng đi với kẻ thù trên một con đò, ngồi cùng một bàn làm việc. Có những lúc địch dùng vũ lực thô bạo, khiêu khích đe dọa đến tính mạng, nhưng các chiến sĩ vẫn bình tĩnh, dũng cảm đấu trí, đấu lý, vạch mặt kẻ thù. Ngày 24-4-1962, bọn địch xúi linh mục và 150 giáo dân di cư ở bờ Nam tổ chức mít tinh phản đối chế độ miền Bắc, lập tức bị các chiến sĩ ta vạch mặt bằng những lời rất thuyết phục, buộc đám biểu tình phải giải tán. Ngày 28-4-1962, địch cho xe quay phim, chụp ảnh miền Bắc. Hai chiến sĩ công an Dưỡng và Trọng đang trực ban ở đồn Cát Sơn đã kiên quyết buộc bọn chúng phải rời khỏi đồn. Lối sống văn hóa và lòng nhân ái của chiến sĩ ta đã thức tỉnh nhiều tên sĩ quan và binh lính địch. Tháng 7-1959, hai cảnh sát đồn Cát Sơn qua đò đổi gác, thuyền bị gió lật chìm. Cảnh sát bờ Nam đứng nhìn đồng bọn bị nạn mà không cứu, cảnh sát đồn Cửa Tùng ở bờ Bắc đã nhanh chóng lao xuống sông cứu sống hai người. Hành động đó đã cảm hóa một số cảnh sát ngụy, làm phân hóa đội ngũ của chúng. Bởi thế mà hai đồn cảnh sát ngụy phía Nam thường xuyên thay đổi quân để đối phó. Nhờ đó, các chiến sĩ công an ta xây dựng được nhiều cơ sở nội tuyến trong lòng địch. Đồn công an Hiền Lương đã tiếp đón 900 đoàn khách quốc tế, 1.300 đoàn khách trong nước. Các đồng chí Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đã đến đồn thăm hỏi, động viên cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ bảo vệ giới tuyến.

“Cuộc chiến âm thanh”

Sau Hiệp đinh Giơ-ne-vơ, nhằm giáo dục, động viên nhân dân đấu tranh thống nhất đất nước, ta đã cho xây dựng một hệ thống loa phóng thanh, phân bổ thành 5 cụm suốt chiều dài 1.500 mét ở bờ Bắc. Mỗi cụm 24 loa loại 25W chĩa về bờ Nam. Mỗi ngày 24/24 giờ, hệ thống loa này phát đi chương trình của đài Tiếng nói Việt Nam, đài Truyền thanh Vĩnh Linh, chương trình ca nhạc, ngâm thơ kể vè, kịch, dân ca, chương trình của Đội truyền thanh lưu động... rất hấp dẫn.

Tức tối, Mỹ-Diệm liền gắn ở bờ Nam những cụm loa có công suất lớn, phát inh ỏi, lấn át cả loa phát của ta. Thế là Trung ương cấp thêm 8 loa công suất gấp đôi (50W) và một loa công suất 250W. Nhờ đó, mỗi lần địch lên giọng tâm lý chiến, hệ thống loa bờ Bắc vang lên, át hẳn tiếng nói của chúng!

Đầu năm 1960, một dàn loa Mỹ với công suất cực lớn được đưa đến bờ Nam. Bọn chúng huyênh hoang: “Hệ thống loa “nói vỡ kính” này sẽ vang xa tận Quảng Bình”. Phía ta, một chiếc loa có đường kính vành loa 1,7 mét, công suất 500W xuất hiện. Bổ sung thêm còn có 20 loa loại 50W, 4 loa loại 250W. Để cung cấp điện cho hệ thống loa có tổng công suất 18.000W này, ta đã dựng một đường dây cao thế 6KvA dài 4km kéo từ Vĩnh Sơn về đến Tùng Luật và một trạm cao tần đặt cách cầu Hiền Lương 2,5km. Các cụm loa được đặt trên trụ bê tông cốt thép kiên cố. Riêng chiếc loa 500W đặt trên xe lưu động. Khi thuận gió, tiếng loa có thể truyền xa 10km, đến tận Chợ Cầu, Cửa Việt, Gio An...

Đến năm 1965, khi Mỹ ném bom miền Bắc, hệ thống loa phóng thanh của cả hai bờ hoàn toàn ngừng hoạt động...

Cuộc “chọi cờ” cũng rất quyết liệt

Ngày 10-8-1954, đồn Hiền Lương dựng cột cờ bằng cây phi lao cao 12 mét, với khổ cờ 3,2mx4,8m (15,36m2). Phía địch liền cắm cờ tam tài của chúng lên nóc lô cốt Xuân Hòa phía Nam cầu, cao 15 mét. Bà con hai bờ yêu cầu: Cờ ta nhất định phải cao hơn cờ địch! Thế là các chiến sĩ lại lặn lội lên rừng tìm được cây gỗ cao 18 mét về làm cột cờ. Trên đỉnh cột treo lá cờ 24m2. Chỉ mấy tháng sau, Ngô Đình Diệm cho xây dựng cột cờ bằng xi măng cốt thép cao 30 mét với lá cờ 3 sọc lớn, có đèn nhấp nháy đủ màu như thách đố.

Cột cờ bên cầu Hiền Lương những năm 60, thế kỷ 20.

Không chịu thua, tháng 7-1957, các chiến sĩ công an Hiền Lương đã dựng một cột cờ bằng thép ống cao 34,5 mét với lá cờ rộng 108m2. Trên đỉnh cột cờ có gắn một ngôi sao bằng đồng có đường kính 1,2 mét. 5 đỉnh ngôi sao gắn một chùm 15 bóng điện loại 500W. Khi lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên cao vút, đồng bào hai bờ reo mừng. Mỹ-ngụy hoàn toàn bất ngờ trước sự kiện này. Chúng vội vàng tôn cột cờ của chúng lên 35 mét, và lên giọng mỉa mai: “Bắc Việt muốn chọi cờ, nhưng chọi sao nổi quốc gia!”.

Đáp lại lòng mong mỏi của đồng bào, năm 1962, Chính phủ ta đã điều một đơn vị xây dựng, chở vật liệu từ Hà Nội vào xây cột cờ cao 38,6 mét, kéo lên lá cờ 134m2, nặng 15kg. Cách đỉnh cột cờ 10 mét có một ca-bin để chiến sĩ ta đứng thu và treo cờ. Đây là cột cờ cao nhất giới tuyến. Nhân dân bờ Nam tận vùng Cửa Việt, Chợ Cầu, Gio An... ở xa hàng chục cây số vẫn nhìn thấy rõ lá cờ Tổ quốc đang vẫy gọi.

Từ năm 1954 đến tháng 10-1967 tại cột cờ phía Bắc Hiền Lương đã dùng hết 267 lá cờ các cỡ. Năm 1967, cột cờ 38,6 mét bị bom Mỹ đánh gãy, các chiến sĩ công an đã thêm 11 lần dựng lại cột cờ bằng gỗ cao từ 12 đến 18 mét, 42 lần thay lá cờ. Từ đây, cuộc chiến “chọi cờ” đến hồi đẫm máu. Cột cờ Hiền Lương là mục tiêu đánh phá trước tiên của máy bay, tàu chiến Mỹ. Ngày 8-1-1965, Nguyễn Cao Kỳ lái chiếc máy bay AD6 bắn phá cột cờ, nhưng bị pháo cao xạ Vĩnh Linh bắn bị thương suýt chết. Ngày 17-8-1965, một tốp “thần sấm” Mỹ lao xuống ném bom cột cờ. Mảnh bom bắn vào cột cờ chan chát, khói bụi mù mịt. Nhưng cột cờ vẫn đứng vững. Tức tối, máy bay Mỹ lại nhào xuống thấp hơn, nhưng bị các chiến sĩ bảo vệ cờ bắn trả quyết liệt. Bọn giặc lái hốt hoảng vãi bom trúng đồn cảnh sát ngụy ở bờ Nam làm 87 tên chết và bị thương, trong đó có tên đồn trưởng...

Ngày 2-8-1967, địch lại tập trung nhiều tốp máy bay thay nhau ném bom một ngày liền, làm cho cầu Hiền Lương bị sập và cột cờ ta bị gãy. Ngay đêm đó, bằng một cột điện chắp thêm cây gỗ, một cột cờ mới lại được dựng lên, làm nức lòng đồng bào hai bờ sông. Cũng ngay trong đêm đó, các chiến sĩ đặc công của ta đã vượt tuyến, dùng bộc phá đánh sập cột cờ bờ Nam, chấm dứt vĩnh viễn lá cờ ba que của ngụy quyền Sài Gòn trên bầu trời giới tuyến!

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ lá cờ Tổ quốc ở đầu cầu giới tuyến, 13 đồng chí công an vũ trang và dân quân đã hy sinh; 8 đồng chí bị thương. Người dân Vĩnh Linh còn nhắc mãi tấm gương mẹ Nguyễn Thị Diệm, anh Nguyễn Đức Lãng... là những người may cờ, vá cờ trong bom đạn. Anh Nguyễn Đức Lãng, người chiến sĩ trong nhiều năm liên tục đã ra Hà Nội nhận cờ. Từ khi Mỹ ném bom miền Bắc, đi lại khó khăn, Bộ tư lệnh cấp cho Vĩnh Linh tiền tự mua vải may cờ. Thế là anh Lãng thành thợ may cờ. Mỗi tháng anh may bình quân một lá cờ. Mỗi năm anh may từ 14 đến 16 lá cờ, rộng hàng trăm mét vuông, nặng 15kg. Mỗi lá cờ may hết 122 mét vải đỏ, 12 mét vải vàng. Mỗi đường may phải may ba bốn đường chỉ cờ mới chịu được sức gió. Khi máy bay địch đánh rát quá, cờ bị rách, mẹ Nguyễn Thị Diệm trong mấy năm trời, với cây kim, sợi chỉ đã bao lần giữa mưa bom bão đạn, sau mỗi trận đánh, mẹ đến ngay chân cột cờ để vá lành lá cờ Tổ quốc. Nhiều lúc bom đánh dữ quá, vá không kịp, mẹ lại chong đèn thức thâu đêm trong hầm để vá. Không đủ vải vá cờ, mẹ động viên các em học sinh quyên góp khăn quàng đỏ để làm vải vá cờ...

NGÔ MINH