QĐND - “Bộ đội tình nguyện Việt Nam chỉ đến chậm khoảng 15 phút thôi là bố tôi và hằng trăm người dân trong làng phải ăn cháo tẩm thuốc độc của bọn Pôn Pốt. Thời khắc thoát chết trong gang tấc ấy khắc sâu trong tâm trí dân làng, đến tận hôm nay bố tôi vẫn thường kể lại bằng tấm lòng biết ơn vô hạn”, Thượng sĩ Thoang-sô-văn, học viên năm cuối thuộc Tiểu đoàn Quốc tế (Trường Đại học Nguyễn Huệ) tâm sự. Anh là một trong số những chiến sĩ trẻ nhiều triển vọng được Quân đội Hoàng gia Cam-pu-chia gửi sang Việt Nam học tập, rèn luyện để trở thành sĩ quan phục vụ cho sự nghiệp bảo vệ đất nước Chùa Tháp.

Học viên Việt Nam – Cam-pu-chia cùng hát vang bài ca hữu nghị.

 

Thượng sĩ Thoang-sô-văn sinh năm 1984 tại tỉnh Kan-đal. Dưới chế độ diệt chủng Pôn Pốt, gia đình anh phải gánh chịu hậu quả nặng nề với 20 người bị giết và mất tích. Duy nhất bố anh sống sót và phải trốn vào rừng cùng một số người trong làng, hằng ngày đào từng củ sắn, hái lá cây rừng ăn tạm cầm hơi nhưng vẫn không thoát khỏi sự truy đuổi của lính Khơ-me Đỏ. Chúng bắt được cả nhóm đưa về làng nhốt chung với hằng trăm người khác. Mỗi ngày, bốn người húp chung một bát cháo loãng, thậm chí phải nhịn đói và chịu sự hành hạ của tụi lính canh… Từng được nghe những câu chuyện bố kể, Thoang-sô-văn nhớ lại:

- Trong đợt về nước nghỉ Tết năm ngoái, sau khi hỏi han tình hình học tập của tôi ở Việt Nam, bố tôi dặn: “Phải chịu khó rèn luyện, tu dưỡng noi gương các bạn Việt Nam. Những người anh em Việt Nam từ trước đến nay luôn chí nghĩa, chí tình. Không có họ thì con cũng không có trên đời”. Rồi bố tôi nhắc lại những kỷ niệm đau buồn ngày trước. Vào đầu tháng 1-1979, Quân tình nguyện Việt Nam tiến công như vũ bão giải phóng Phnôm Pênh nhưng người dân quê tôi bị lính Pôn Pốt đưa ra bìa rừng giam giữ nên không hề biết điều gì đang diễn ra, mặc dù nơi đấy chỉ cách thủ đô chừng 20km. Những người sống sót trong làng bị nhốt chung trong mấy chiếc lều. Hôm đó, tụi lính bảo mọi người, buổi trưa tổ chức lễ cúng thần rừng sẽ cho cả làng ăn một bữa no nê. Nhiều người nghi ngờ, lo lắng nhưng vì quá đói và sợ bị đánh chết nên đành im lặng phó mặc cho số phận. Gần đến giờ ăn, bọn lính tập hợp bà con ra một bãi đất trống. Đúng lúc đó có tiếng súng nổ dữ dội từ phía đầu làng và những tiếng hô hét mỗi lúc một gần hơn. Bố tôi nghe bọn lính bảo nhau, bộ đội Việt Nam đã giải phóng Phnôm Pênh, đang tiến vào làng. Tụi chúng hoảng loạn, nháo nhác, hò nhau bỏ chạy vào rừng. Tiếng súng nổ rất gần, bước chân người chạy huỳnh huỵch, bà con ngơ ngác, ngồi túm lại với nhau. Bộ đội Việt Nam xuất hiện như “Đội quân nhà Phật” đưa bà con trở về nhà và tổ chức truy kích tàn quân Pôn Pốt. Khổ thân mấy đứa nhỏ, chúng đói quá nên chạy tới chỗ nồi cháo mà bọn lính canh để lại, vừa ăn được vài miếng đã trúng độc ngã lăn ra chết. Cũng may, các chiến sĩ tình nguyện Việt Nam đến kịp, nếu không thì cả làng tôi đã không còn sống sót một ai. Kể từ đó, bố tôi đi theo Quân tình nguyện Việt Nam, tham gia chiến đấu giải phóng quê hương, hiện là Trung tá, cán bộ thanh tra thuộc Bộ tư lệnh lục quân Hoàng gia Cam-pu-chia.

Cũng trong những năm đau thương của dân tộc, gia đình Thượng sĩ Kry-chăn-đết có tới 6 người bị quân Pôn Pốt sát hại. Kry-chăn-đết nhớ mãi lời kể của bà:       

- Năm 1977, tụi Khơ-me Đỏ kéo vào làng. Chúng bắt và giết tất cả những người nghi ngờ liên quan đến chính trị. Vài hôm sau, tụi lính lùa dân làng ra tập trung rồi hỏi những ai là giáo viên để lập danh sách, khi hết chiến tranh sẽ bố trí công việc dạy học dựng xây đất nước.       

Nhiều người tin tưởng nên đã nhận ngay, trong đó có ông ngoại tôi. Cuối buổi sáng, chúng mời tất cả giáo viên lên chiếc xe bịt kín nói là đưa đi làm giấy tờ chuẩn bị cho lớp học nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. Thế nhưng từ lúc đó, dân làng không còn gặp lại họ nữa cho đến khi có tin báo tụi Pôn Pốt đã dùng vồ đập chết những giáo viên ấy và hất xuống hố sâu phía bên kia chân núi.

Dừng lại giây lát, chàng học viên nước bạn chùng giọng kể tiếp:

- Anh trai tôi mới lên 7 tuổi cũng bị quân Khơ-me Đỏ giết hại. Đến nay, mỗi khi nhớ lại cái ngày đen tối đó bố tôi vẫn chưa hết buồn lòng. Chiều giữa năm 1978, mẹ dẫn anh tôi sang gửi bên nhà bác nhờ trông giúp. Đúng hôm ấy tụi Khơ-me Đỏ kiểm tra lý lịch, biết bác tôi từng làm việc ở Hoàng cung nên chúng kéo đến nhà bắt bớ, đánh đập và giết sạch không còn một ai. Anh tôi cũng chịu chung số phận oan nghiệt đó. Trong làng, thảm cảnh tang tóc diễn ra khắp nơi. Chỉ đến khi Quân tình nguyện Việt Nam đánh bật Khơ-me Đỏ, quê tôi mới được hồi sinh. Bởi vậy, bà con quê tôi luôn khắc sâu công ơn của bộ đội Việt Nam đã cứu dân tộc chúng tôi thoát khỏi họa diệt chủng. Nhiều gia đình trong làng không chỉ thờ người thân đã mất dưới bàn tay độc ác của quân Khơ-me Đỏ mà còn thờ cả những cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện Việt Nam đã anh dũng hy sinh khi giải phóng dân làng.

Câu chuyện của Kry-chăn-đết như gợi lại nỗi buồn sâu thẳm trong tiềm thức của Thiếu úy Siêng-vi-say, 28 tuổi, đang học năm thứ 5 sĩ quan Trinh sát tại Tiểu đoàn Quốc tế. Gia đình Siêng-vi-say có ông bà và các bác bị Pôn Pốt giết và đưa đi biệt tích. Mẹ anh thường kể, một ngày nắng như đổ lửa cuối tháng 11-1978, tụi Pôn Pốt kéo về làng rất đông. Chúng cướp phá, chiếm nhà cửa và xua đuổi bà con lên rẫy, bắt ở tập trung như trong trại tù. Chúng tách riêng các cặp vợ chồng ra nhiều nơi khác nhau. Bố mẹ Siêng-vi-say cũng bị chia cách mỗi người một ngả. Hằng ngày chúng giết người vô tội vạ để mua vui. Chỉ trong khoảng một tháng, cả làng đã mất gần trăm người. Thế rồi, tụi lính xây 3 chiếc lò với ý định ném tất cả vào thiêu chết. Bà con hoang mang, lo sợ khi những chiếc lò thiêu sắp hoàn thành. May sao, đúng thời đó, bộ đội tình nguyện Việt Nam đã đến cứu thoát đồng bào trong thời khắc tuyệt vọng nhất. Sau ngày giải phóng, nhờ sự giúp đỡ của bộ đội Việt Nam, gia đình Siêng-vi-say đã được sum vầy, đoàn tụ. Trong sâu thẳm tâm hồn, cả nhà anh ai cũng cảm phục, biết ơn Bộ đội Cụ Hồ. Khi Siêng-vi-say được sang Việt Nam học tập, những người lớn tuổi trong làng đến chúc mừng và hết lời khen ngợi quân đội và nhân dân Việt Nam anh dũng, kiên cường, chí tình, chí nghĩa.

Thời gian được đào tạo trong nhà trường quân đội Việt Nam, những học viên trẻ Quân đội Hoàng gia Cam-pu-chia luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ tận tình của cán bộ quản lý tại các đơn vị và đội ngũ các thầy giáo, cô giáo Việt Nam, tạo ấn tượng và hình ảnh tốt đẹp đối với học viên nước bạn. Thượng sĩ So-thươn, 35 tuổi, quê ở Cam-pốt, học viên năm thứ 3 Trường Đại học Nguyễn Huệ, bày tỏ: “Được sang học tập tại Việt Nam là niềm vinh dự lớn đối với tôi. Ngay từ những ngày đầu chúng tôi đã có cảm giác Việt Nam gần gũi, thân thiết như chính quê hương mình. Thế hệ trẻ Cam-pu-chia hôm nay nguyện tiếp tục vun đắp cho tình hữu nghị 2 nước láng giềng Việt Nam – Cam-pu-chia đời đời tốt đẹp, không để bất cứ thế lực nào có thể chia rẽ được”.

Bài và ảnh: HOÀNG THÀNH-VIỆT ANH