(Tiếp theo và hết)

Cần sự chung tay của cộng đồng

Chi nhánh Viettel tỉnh Gia Lai là một trong những đơn vị dẫn đầu về hạ tầng trên địa bàn Tây Nguyên. So với các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông khác ở tỉnh Gia Lai thì hiện tại, Viettel có số lượng trạm lớn nhất. Đơn vị này đang có 448 trạm 2G, 519 trạm phát sóng 3G và 508 trạm phát sóng 4G, cơ bản phủ kín địa bàn tỉnh.

Để đạt được kết quả như vậy thì cán bộ, nhân viên của Viettel Gia Lai đã phải cố gắng không ngừng trong nhiều năm. Bởi việc triển khai các trạm, kéo dây mạng để cung cấp dịch vụ tới các thôn, bản rất khó khăn là việc không đơn giản. Ví dụ, dù chỉ cách trung tâm thành phố khoảng 27km nhưng người dân xã Ia Yok (huyện Ia Grai) với hơn 1.800 hộ dân, cũng mới được sử dụng internet cáp quang tốc độ cao. Anh Nguyễn Hồng Lộc, cộng tác viên điểm bán, điểm giao dịch Viettel xã Ia Yok, chia sẻ, để kéo được đường cáp quang về xã là nhờ sự chung tay góp sức của người dân và doanh nghiệp. Trong đó, Trung tâm Viettel huyện Ia Grai hỗ trợ lắp đặt đường dây miễn phí, còn người dân thì vận động góp tiền để chôn cột kéo dây mạng.

Triển khai và đưa các dịch vụ của mình đến gần với người dân một cách hiệu quả, Chi nhánh Viettel tỉnh Gia Lai đã sử dụng nhiều chính sách phong phú. Cụ thể, phối hợp với Tỉnh đoàn, Sở Y tế, Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức những buổi tuyên truyền, phát tờ rơi, băng rôn ở các trường học, trạm y tế,... khuyến khích người dùng dịch vụ với những khuyến mãi hấp dẫn, như: Miễn phí lắp đặt internet, đăng ký internet 6 tháng được miễn cước 2 tháng; phối hợp với các công ty tín dụng, nhà cung cấp sản phẩm điện thoại thông minh, máy tính, ti vi kết nối internet triển khai các hình thức trợ giá sản phẩm, mua trả góp lãi suất 0%, bảo hành miễn phí, sử dụng dịch vụ 3G, 4G giá rẻ…

Thiếu tá Võ Trần Trung, Phó giám đốc Chi nhánh Viettel tỉnh Gia Lai, cho biết: “Chúng tôi đã và đang thực hiện sự chỉ đạo của tập đoàn và tổng công ty triển khai đồng bộ các chương trình hỗ trợ các sở, ban, ngành, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, mà trong đó lấy internet là điểm tựa. Cụ thể, chúng tôi triển khai phần mềm SMAS cho giáo dục; phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu (CSDL), hệ thống cầu truyền hình, hệ thống quản lý nhân sự, hệ thống cổng thông tin điện tử cho tất cả sở, ngành; sổ tiêm điện tử, SMS tiêm chủng y tế… Dự kiến, đến năm 2020, chi nhánh sẽ hoàn thành 100% các chương trình hỗ trợ, bao gồm cả phủ sóng 4G đến tất cả người dân trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Để làm được điều này rất cần có sự ủng hộ của chính quyền địa phương và người dân”.

Nhân viên Chi nhánh Viettel tỉnh Gia Lai đấu nối cáp quang đưa internet tới xã Đăk Krong, huyện Đăk Đoa. 

Thêm ứng dụng hữu ích cho người dân

Theo đánh giá của Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU), Việt Nam luôn nằm trong số các quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng internet cao nhất trên thế giới. Sau hai thập kỷ, đến nay, Việt Nam đã có hơn 50 triệu người dùng internet, chiếm tỷ lệ khoảng 54% dân số, nằm trong số ít quốc gia mà số người dùng internet nhiều hơn số người không dùng.

Tuy nhiên hiện nay, internet ở Việt Nam vẫn còn sự phân bổ chưa đồng đều về địa lý. Trong tương lai gần, cơ quan Nhà nước cũng như các doanh nghiệp sẽ phải nỗ lực để tăng nhanh nhất và nhiều nhất tỷ lệ người dân được tiếp cận internet. Ông Vũ Thế Bình, Tổng giám đốc NetNam, Tổng thư ký Hiệp hội Internet Việt Nam-VIA, cho rằng: “Mặc dù hạ tầng internet Việt Nam khá phát triển cùng với sự bùng nổ của mạng 3G, 4G, nhưng đến nay, phần nội dung, dịch vụ giá trị gia tăng ứng dụng trên internet nước ta hầu hết nằm trong tay các công ty nước ngoài. Đây là thách thức nhưng đồng thời cũng là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam tập trung thúc đẩy phát triển các ứng dụng phục vụ người dân; dần dần đưa nền công nghiệp nội dung số, các dịch vụ giá trị gia tăng trên mạng tăng trưởng cả về thị phần cũng như tầm quan trọng với người dùng internet Việt Nam”. Các doanh nghiệp nên quan tâm đến nhu cầu của người dân vùng sâu, vùng xa, xem họ cần gì và internet có thể giúp gì để cải thiện đời sống của họ, từ đó tạo ra các ứng dụng hữu ích.

Bên cạnh đó, nhằm đưa các dịch vụ internet, viễn thông và công nghệ thông tin đến với người dân vùng sâu, vùng xa thì điều đầu tiên là giải pháp về vốn đầu tư để hỗ trợ mở rộng và nâng cấp mạng lưới thông qua quỹ viễn thông công ích, hoặc sử dụng nguồn vốn vay. Và các giải pháp công nghệ đóng vai trò quan trọng đối với riêng vùng nông thôn, bởi không giống như ở thành thị, có thể sử dụng tất cả giải pháp từ hữu tuyến đến vô tuyến, trong khi đó, ở nông thôn nên chọn các công nghệ không dây như VSAT-IP, vệ tinh,… Ngoài ra, theo ý kiến của nhiều người dân thì quan trọng nhất vẫn phải là các giải pháp về giá cước. Nếu giá cước còn cao thì nhiều người dân nghèo ở vùng sâu, vùng xa sẽ không có cơ hội để sử dụng dịch vụ. Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cần có chính sách khác nhau để hỗ trợ giá cước cho người dân, ví như: Hỗ trợ cước lắp đặt ban đầu, cước thuê bao tháng, tiền mua sắm thiết bị.

 Một điểm cũng cần đặc biệt lưu ý trong quá trình phát triển internet tại Việt Nam là bảo đảm an toàn thông tin, bảo mật thông tin cá nhân. Các cơ quan quản lý cũng như nhà cung cấp dịch vụ cần bảo đảm cung cấp nhiều tiện ích, dịch vụ, thông tin có ích cho người sử dụng, đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực ảnh hưởng đến người dùng, nhất là đối với thanh niên, thiếu niên và trẻ em.

Viettel có câu slogan rất hay: "Khi công nghệ tiến lên phía trước, không ai bị bỏ lại phía sau". Hạ tầng internet mang lại cơ hội phát triển rất lớn cho vùng sâu, vùng xa. Phải nhìn nhận đúng cơ hội ấy, từ đó có những chính sách phù hợp. Các cấp chính quyền, doanh nghiệp và người dân cần nỗ lực hành động để trong sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, người dân nghèo ở vùng sâu, vùng xa không những không bị bỏ lại mà có cơ hội tiến nhanh hơn.        

Bài và ảnh: QUỲNH DƯƠNG - LÊ HIẾU - LA DUY