Học sinh và phụ huynh tham quan khu trưng bày sách giáo khoa của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam tại Triển lãm thành tựu đất nước “Hành trình 80 năm Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Ảnh: THANH XUÂN

Sứ mệnh của giáo dục phổ thông

Mọi nền giáo dục đều có hai nhiệm vụ chính, đó là dạy làm việc và dạy làm người.

Dạy làm việc là cung cấp cho người học những kiến thức, kỹ năng cần thiết để lao động và kiếm sống. Nhà trường làm điều đó bằng cách cung cấp cho người lao động tương lai những kiến thức và kỹ năng cơ bản như: Đọc, viết, các phép tính căn bản, các quy định của pháp luật, kỹ năng suy luận, giao tiếp, bảo vệ sức khỏe... 

Dạy làm người là bồi dưỡng tình cảm, thái độ và tâm hồn của người học đối với đất nước, đồng loại và thiên nhiên. Nhà trường làm việc đó bằng cách trang bị cho người học tình cảm và hiểu biết về con người và vị trí của con người trong xã hội và tự nhiên.

Giáo dục phổ thông thực hiện hai nhiệm vụ nói trên ở mức độ căn bản nhất, chung nhất. Mức độ cao hơn, chuyên sâu hơn, đó là nhiệm vụ của trường năng khiếu, trường nghề và đại học. Đó là lý do vì sao giáo dục phổ thông luôn được Nhà nước đặc biệt quan tâm. Giáo dục phổ thông ở nhiều nước không chỉ là quyền lợi mà còn là bắt buộc, ít nhất là đến hết Trung học cơ sở, cùng với chính sách miễn học phí. Nhà nước cũng có những quy định chặt chẽ về chương trình, giáo viên và sách giáo khoa.

Hoàn cảnh đặc thù của các quốc gia

Xã hội ở một số nước, như Nhật Bản, Hàn Quốc... có mức độ đồng nhất rất cao. Ở Nhật Bản chẳng hạn, tuyệt đại đa số dân cư là người Nhật và sự phát triển giữa các vùng là khá đồng đều, vì vậy, đào tạo con người dân tộc không phải là vấn đề cấp bách. Ở châu Âu, sự hình thành các quốc gia dân tộc diễn ra trong vài thế kỷ và phần lớn hoàn thành cuối thế kỷ XIX. Quá trình này thường bắt đầu bằng sự nhất thể hóa ngôn ngữ, tiếp theo là sự lên ngôi của “nền văn học dân tộc” viết bằng ngôn ngữ bản địa. Cái gọi là “Văn học Pháp”, “Văn học Đức”... chỉ xuất hiện từ thế kỷ XIX. Trong nhà trường, môn Văn học trở thành công cụ quan trọng nhất để đào tạo con người dân tộc: Người ta học văn học Pháp để trở thành người Pháp, học văn học Đức để trở thành người Đức...

Với những quốc gia như Nga, Trung Quốc hay Việt Nam, vấn đề lại khác. Việt Nam có 54 dân tộc, nói khoảng 100 thứ tiếng, với trình độ phát triển kinh tế-xã hội rất chênh lệch giữa các vùng miền, thêm vào đó là những di chứng của chính sách chia để trị thời thuộc địa và sự chia cắt đất nước giai đoạn 1954-1975. Vì vậy, đối với chúng ta, nhiệm vụ đào tạo con người dân tộc là vô cùng quan trọng và cấp thiết. Việc thống nhất sách giáo khoa, đặc biệt là các môn lịch sử, địa lý và văn học, tạo tiền đề quan trọng để thực hiện nhiệm vụ đó.

Có hay không nguy cơ “đồng phục tư duy”

Liệu việc dùng chung một bộ sách giáo khoa có khiến người học bị trở thành “đồng phục tư duy” hay không, và riêng đối với môn văn, có khiến “văn mẫu” trở lại hay không?

Về vấn đề “đồng phục tư duy”, câu trả lời của chúng tôi là “Không”. Sách giáo khoa chỉ là học liệu, việc sử dụng nó phụ thuộc vào người dạy và người học. Dù muốn đi chăng nữa, chúng ta cũng không thể bắt buộc 10 giáo viên dạy một bài thơ của Nguyễn Trãi theo cùng một cách, và dù muốn hay không thì một ngàn học sinh tiếp nhận bài thơ đó theo một ngàn cách khác nhau. Cái được ở đây là mặc dù tiếp nhận khác nhau, một ngàn học sinh đó có ký ức chung về cùng một đối tượng tiếp nhận: Bài thơ của Nguyễn Trãi.

Về vấn đề văn mẫu, chúng ta cần tránh sự cực đoan và phiến diện. Thực ra sử dụng “mẫu” là một phương pháp phổ biến và rất hiệu quả giáo dục. Phương pháp này có cả trong tự nhiên: Hổ mẹ làm mẫu để dạy con săn mồi, chẳng hạn. Trong giáo dục, mẫu đóng vai trò như một ví dụ, một mô hình được khái quát hóa từ kinh nghiệm, giúp người học dễ dàng hình dung trong quá trình nhận thức, từ đó có cơ sở thoát ra khỏi những cách làm cứng nhắc để sáng tạo. Thứ “văn mẫu” bất di bất dịch mà chúng ta phản đối thực ra chỉ xuất hiện gần đây, xuất phát từ quan niệm máy móc, cho rằng tác phẩm văn học là văn bản, học văn là đọc hiểu văn bản thông qua những đặc điểm khách quan của nó. Tác giả của những bài văn mẫu loại này không phải ai khác ngoài các chuyên gia giáo dục. Và nhu cầu đối những bài văn mẫu này chính là cách ra đề thi với các ba-rem chấm bài cứng nhắc, mà tác giả cũng chính là các chuyên gia giáo dục.

Học sinh Trường THCS Giảng Võ (Hà Nội) tham quan gian hàng của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam nhân dịp Tuần lễ hưởng ứng học tập suốt đời năm 2024. Ảnh: THANH XUÂN

Thống nhất sách giáo khoa như thế nào?

Một câu hỏi cần đặt ra: Nên xử lý như thế nào đối với những bộ sách giáo khoa đang dùng? (xin lưu ý rằng, tất cả các bộ sách này đều đã được thẩm định và cho phép lưu hành). Câu trả lời của chúng tôi là cần có quyết định cụ thể cho từng trường hợp cụ thể.

Đối với các môn khoa học tự nhiên, chúng ta có thể chọn một trong những bộ đang dùng để làm bộ chuẩn, nếu cần thiết thì chỉnh lý; những bộ còn lại dùng để tham khảo.

Đối với những môn học hiện nay chỉ có một bộ sách duy nhất (Tiếng Pháp, Tiếng Nhật, Tiếng Hàn...), chúng ta có thể tiếp tục sử dụng và nếu thực sự cần thiết chỉnh lý.

Đối với các môn khoa học xã hội, đa số sách giáo khoa đều cần phải sửa đổi ít nhiều sau khi sáp nhập tỉnh và thay đổi mô hình quản lý nhà nước. Nhân dịp này, ta nên soạn lại một cách cơ bản với nguyên tắc: Vừa thể hiện được chân lý “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”, vừa tôn vinh được tính đa dạng của đất nước ta về chủng tộc và vùng miền.

Trong số này, môn Văn (hiện nay gọi là Ngữ văn) có vai trò quan trọng nhất trong việc đào tạo con người Việt Nam, cần đặc biệt quan tâm. Chúng tôi có một số đề nghị mang tính nguyên tắc: Ưu tiên đưa vào sách những tác phẩm đã được công nhận rộng rãi là tinh túy của văn học Việt Nam (bao gồm cả văn học của các dân tộc thiểu số); hạn chế tối đa việc sử dụng tác phẩm mới của những tác giả mới, chưa được thời gian thẩm định (hay thậm chí gây tranh cãi, cả về nội dung tác phẩm lẫn nhân thân tác giả) như trong các bộ sách Ngữ văn hiện nay; ưu tiên sử dụng các tác phẩm gốc (hoặc trích đoạn tác phẩm gốc); hạn chế tối đa việc sử dụng các bản lược thuật, lược dịch hay cải biên.

Trong mọi trường hợp, nội dung sách giáo khoa chỉ nên chiếm khoảng 80% thời lượng môn học. Giáo viên nên được khuyến khích bổ sung các nội dung liên quan đến các địa phương, các dân tộc thiểu số, những chủ đề đặc biệt hay những vấn đề của thời đại.

Tiến sĩ NGÔ TỰ LẬP, Viện Nghiên cứu Phát triển Văn hóa, Ngôn ngữ và Giáo dục

* Mời bạn đọc vào chuyên mục Giáo dục Khoa học xem các tin, bài liên quan.