Nhiều cấp, ngành, trong đó có ngành giáo dục-đào tạo thời gian qua  đã phát động các chương trình, cuộc thi sáng tạo, nhằm khuyến khích tinh thần học tập, nghiên cứu khoa học của học sinh, sinh viên và giáo viên. Qua đó, có nhiều mô hình, sáng kiến thiết thực. Điển hình như mô hình “Robot phun thuốc trừ sâu thay thế con người” của giảng viên Nguyễn Chánh Nghiêm và Cao Hoàng Tiến (Khoa Công nghệ, Trường Đại học Cần Thơ) chế tạo. Chứng kiến người nông dân hằng ngày phải đối mặt với nguy cơ mắc bệnh từ việc phun thuốc bảo vệ thực vật theo hình thức thủ công, các tác giả đã cho ra đời mô hình “Robot phun thuốc trừ sâu thay thế con người”. Mô hình được thiết kế ở dạng máy bay lên thẳng nhờ lực nâng của 6 cánh quạt. Nguyên tắc hoạt động của máy theo sự điều khiển từ xa của con người với các nút di chuyển trái, phải, vươn cánh tay và phun thuốc. Tùy địa hình thửa đất, chiều cao của loại cây trồng, người sử dụng có thể điều chỉnh vòi phun của máy.

leftcenterrightdel
Mô hình “Đập ngăn mặn thông minh” của học sinh và giáo viên Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Him Lam (huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang) được thiết kế đơn giản, tự động hóa, nhưng chưa được ứng dụng vào thực tế. 
Một sáng kiến tiêu biểu khác là mô hình “Đập ngăn mặn thông minh” sử dụng năng lượng mặt trời của em Huỳnh Hoàng Khánh (học sinh lớp 8A1) và Nguyễn Thị Ngọc Dung (học sinh lớp 9A1) cùng sự hướng dẫn của thầy Lê Thanh Liêm, giáo viên môn Vật lý, Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Him Lam, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. Dựa trên hiện tượng lực đẩy Ác-si-mét, “Đập ngăn mặn thông minh” ra đời với thiết kế đơn giản, tự động hóa theo bộ lô-gích điều khiển, vận hành theo cơ chế pin năng lượng mặt trời, vừa tiết kiệm chi phí, vừa mang lại hiệu quả cao. Thay vì sử dụng sức người, đập ngăn mặn thông minh được vận hành tự động, chủ động được thời gian, phát hiện sớm tình trạng xâm nhập mặn, phân tích chuẩn độ mặn chính xác cao. Đặc biệt, đập ngăn mặn thông minh còn đáp ứng nhu cầu trữ nước ngọt cho vườn cây và đồng ruộng, từ đó giải quyết được bài toán khó cho những vùng trồng trọt, kết hợp nuôi tôm.

Dù có nhiều lời khen ngợi và được đánh giá cao tại các cuộc thi nhờ tính hiệu quả, sáng tạo của sản phẩm, nhưng phần lớn các sáng chế nêu trên vẫn chỉ dừng lại ở mô hình, bởi việc đưa các mô hình, sáng kiến khoa học vào thực tiễn đời sống là “bài toán” không đơn giản.

Đơn cử như mô hình “Xe hỗ trợ canh tác lúa đa năng chạy bằng động cơ điện điều khiển từ xa” của học sinh Lê Bảo Duy, lớp 10A2, Trường THPT Vị Thủy (huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang). Mô hình có những tính năng ưu việt hỗ trợ nhà nông, như: Phun thuốc bảo vệ thực vật, cắt bông cỏ, lúa 2 tầng; sạ hàng, đánh rãnh thoát nước, làm phẳng mặt ruộng trước khi gieo sạ…, giúp người nông dân giảm bớt tác hại trong quá trình phun xịt thuốc trừ sâu đến sức khỏe con người, rất tiện ích trong trồng lúa. Mặc dù có nhiều tính năng ưu việt và mất nhiều thời gian nghiên cứu chế tạo, nhưng sau các cuộc thi, các buổi trình diễn, mô hình nhanh chóng bị “lãng quên”.

Trao đổi với chúng tôi, thầy Lưu Hoàng Thức, giáo viên hướng dẫn làm mô hình, chia sẻ: Mô hình đã được các tác giả tháo ra và “đóng gói”, cất kỹ vì chưa đăng ký quyền sở hữu trí tuệ. Tổng chi phí cho sản phẩm chỉ khoảng 5 triệu đồng. Ban đầu khi sáng tạo mô hình, chúng tôi chỉ nghĩ đến việc nghiên cứu, thiết kế sao cho mô hình đem lại hiệu quả nhất mà chưa nghĩ đến việc phải tìm nhà tài trợ. Vì thế, khi ra được sản phẩm, dù giá thành thấp, nhưng đành phải "đắp chiếu”, không thể đưa vào ứng dụng.

Một trong các lý do khiến các sản phẩm nghiên cứu, sáng tạo của học sinh, sinh viên ít được ứng dụng bởi một số mô hình giá thành còn cao, như mô hình “Robot phun thuốc trừ sâu thay thế con người”. Trao đổi về vấn đề này, TS Nguyễn Chánh Nghiêm, đồng tác giả mô hình cho biết: “Từ trước đến nay, nông dân đã quen tự làm nên khi đưa ra mô hình “Robot phun thuốc trừ sâu thay thế con người” thì bà con vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng về khả năng ứng dụng. Bên cạnh đó, do mô hình được chế tạo bằng các vật liệu nhập ngoại nên giá thành khá cao, trong khi thu nhập từ nông nghiệp còn bấp bênh, bà con không dám đầu tư”.

Một thực tế khác cần nhìn nhận là hầu hết các sáng kiến đều được hoàn thành bằng sự đam mê mà chưa có mối liên kết với các tổ chức, doanh nghiệp để có thể tài trợ chi phí sau khi nghiên cứu thành công mô hình. Ngoài ra, dù các sáng chế được làm theo “đơn đặt hàng của cuộc sống” và chi phí thấp, nhưng phần đông nông dân đã quen với cách làm thủ công nên “ngại” tiếp xúc với công nghệ. Cũng chính vì thế mà các doanh nghiệp không dám “mạo hiểm” đầu tư.

PGS, TS Nguyễn Chí Ngôn, Trưởng khoa Công nghệ, Trường Đại học Cần Thơ, cho rằng, những sáng kiến, giải pháp hữu ích do nông dân, học sinh, sinh viên sáng tạo ra “rất có nghề”, có tính ứng dụng cao. Tuy nhiên, hầu hết các sáng chế, giải pháp đó chỉ mới được áp dụng trong phạm vi gia đình và địa phương, thậm chí bị “đóng thùng, cất kỹ”. Chỉ có một số ít sáng chế được khai thác ở quy mô thương mại, chuyển giao cho các tổ chức, cá nhân, trong khi khá nhiều sáng kiến, giải pháp hữu ích mang lại hiệu quả cao, nhưng chưa được nhân rộng.

Việc khai thác, ứng dụng các sáng kiến, sáng chế của học sinh, sinh viên cũng còn những bất cập về cơ chế, chính sách, chưa phát huy hiệu quả sự liên kết giữa nhà nông, nhà khoa học, nhà nước, doanh nghiệp. “Hiện nay, việc liên kết này còn mang tính hình thức, chưa phân định được quyền lợi và trách nhiệm của mỗi tập thể, cá nhân. Cùng với đó, chính sách hỗ trợ nông dân ứng dụng các sản phẩm khoa học còn hạn chế, kinh phí để triển khai gặp nhiều khó khăn, thủ tục rườm rà, khiến nông dân khó đáp ứng được”, PGS, TS Nguyễn Chí Ngôn nhấn mạnh.

Để các mô hình, sáng kiến của học sinh, sinh viên được ứng dụng rộng rãi trong đời sống, cần có cơ chế phù hợp trong từng lĩnh vực sản xuất và đời sống, nhất là phát huy tối đa mối liên kết “4 nhà” (nhà nông, nhà khoa học, nhà nước, doanh nghiệp) nhằm nâng cao sự tương trợ trong hoạt động nghiên cứu, sáng chế.

Bài và ảnh: THÚY AN