Khi đạt được những thành tựu nhất định của sự nghiệp và nhất là khi đã đi qua chặng dài nhất của đường đời, mỗi người Việt chân chính thường tự hỏi mình đã đóng góp được gì cho Tổ quốc, quê hương? Cá nhân tôi cũng vậy, tự thấy chưa có nhiều đóng góp cho đời, nhưng tôi cũng rất tự hào khi nghĩ về quá khứ của mình là một chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, đã xông pha trận mạc trên chiến trường miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, và hiện là một Việt kiều nơi xa xứ, đã trải hàng chục năm với bao biến động thăng trầm của cá nhân và bối cảnh xã hội, chính trị ở nước Đức, châu Âu và thế giới, nhưng vẫn một lòng kiên trung trong cuộc đấu tranh không mệt mỏi để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chính nghĩa và danh dự của Tổ quốc.
 |
| Cuộc gặp tháng 4-2025 tại TP Vinh, do Ban Nội chính tỉnh Nghệ An tổ chức (tác giả đứng thứ 3, hàng đầu, từ trái qua). |
Một câu hỏi mà rất nhiều bạn bè thân thiết, đặc biệt là các cựu chiến binh đã cùng tôi vào sinh ra tử, thường đặt ra rằng, tại sao sống giữa môi trường chính trị phức tạp phương Tây trong một quãng thời gian dài hàng thập kỷ mà tôi vẫn tuyệt đối tin tưởng vào con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước ta? Và tôi đã trả lời một cách trung thực: Niềm tin vào sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Bác Hồ chưa bao giờ phai nhạt trong tôi. Trên thực tế, niềm tin son sắt đó đã không hề lay chuyển ngay cả trong những khoảnh khắc mà cái chết cận kề trước họng súng của kẻ thù và trong những tháng ngày sóng gió của tôi ở CHLB Đức, trong cuộc đấu tranh vì lẽ phải, vì chân lý và lợi ích của dân tộc.
Không phải chỉ khi bước sang tuổi “xưa nay hiếm” mới ngoảnh đầu trông lại, mà từ rất lâu trong những năm tháng tuổi trẻ, tình yêu và niềm tin vào Bác Hồ và Đảng đã luôn là một sợi chỉ đỏ xuyên suốt tâm hồn tôi, soi sáng tư tưởng, nghĩ suy, nhận thức và hành động của tôi, là nguyên nhân chủ yếu và sâu xa giúp tôi vượt qua mọi gian nan, thử thách để hoàn thành mọi nhiệm vụ và cuối cùng trở thành một thành viên tích cực, một trí thức Việt kiều yêu nước - như nhận định, đánh giá của cộng đồng hôm nay.
Nhưng trước tiên cần phải nói đến sự giáo dục của gia đình. Ba tôi - sinh ra và lớn lên ở làng An Cựu, Huế, rời bỏ Trường Quốc học Huế theo cách mạng, và trong thập niên 1950 ở Thiệu Hóa, làm việc cho Ủy ban Kháng chiến tỉnh Thanh Hóa - đã căn dặn tôi, đại ý là: "Con phải phát huy truyền thống cách mạng của gia đình ta, đại gia đình ta có nhiều người đã bí mật lên Chiến khu khi mặt trận Huế bị vỡ, đầu năm 1947, và quyết tâm hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp''.
Không chỉ lời dạy bảo của ba mẹ, mà những gì trực tiếp chứng kiến bằng mắt đã ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức và sự trưởng thành của tôi sau này. Ngày 5-8-1964, khi mới 10 tuổi, lần đầu tiên tôi trông thấy máy bay Mỹ bay qua vùng biển quê tôi, bắn phá các mục tiêu nằm quanh cửa biển Lạch Trường (nằm giữa hai huyện Hoằng Hóa và Hậu Lộc). Ngày 4-4-1965, tận mắt thấy bom và rốc két Mỹ bắn phá quê tôi, đặc biệt là khu vực gần Chợ Kho thuộc xã Hải Ninh, Tĩnh Gia, Thanh Hóa, nay là phường Ngọc Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Đặc biệt, cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ nhằm “đưa miền Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá”, đã tác động rất lớn đến suy nghĩ, tư tưởng và quan điểm chính trị của cá nhân tôi. Những năm sau đó, để ngăn chặn sự tiếp viện của ta cho chiến trường với khẩu hiệu “Tất cả vì tiền tuyến, tất cả vì miền Nam ruột thịt”, không quân và hải quân Mỹ đã tàn phá Thanh Hóa rất nặng nề, tất cả các nhà máy, toàn bộ cầu đường bộ, bến phà, nhà ga xe lửa đều bị phá hủy hoàn toàn. Những hình ảnh tang thương đó đã ăn sâu trong tâm trí tôi và luôn thôi thúc tôi phải sống và cống hiến hết mình cho quê hương. Tôi đã rất lo lắng cho tình hình đất nước, nỗi lo của một đứa trẻ còn đi chân đất đến trường, nhưng trong lòng vẫn tin tưởng, chắc chắn rằng cuộc kháng chiến giải phóng miền Nam và công cuộc thống nhất đất nước sẽ thắng lợi hoàn toàn.
Sự kiện quan trọng quyết định con đường tôi đi, đó là đang học lớp 10, tôi nhận lệnh nhập ngũ và trở thành chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam. Sau ba tháng huấn luyện chiến sĩ mới ở vùng rừng núi của tỉnh Hòa Bình, cùng các đồng đội, tôi đã cõng ba lô vượt Trường Sơn, tham gia Chiến dịch tiến công Trị - Thiên năm 1972, tại chiến trường Quảng Trị. Vào thời điểm đó, đơn vị tôi được giao nhiệm vụ giữ tuyến chốt Chợ Sãi áp sát Thành Cổ ở hướng Đông Bắc.
Những trận đánh đẫm máu ở khu vực đó và sau đó là trận chiến quyết liệt đánh đuổi quân ngụy Sài Gòn ra khỏi cảng Cửa Việt đã cung cấp những minh chứng thực tế quý giá cho các bài học mà trước đó tôi đã có được trong môn học chính trị lớp 10: Bằng mọi giá, đế quốc Mỹ muốn biến miền Nam Việt Nam thành một thuộc địa kiểu mới của thế kỷ 20. Nhưng vũ khí tối tân, sự tàn bạo của quân xâm lược và thế lực tay sai đã không đè bẹp được ý chí của một dân tộc với những con người “chân trần, chí thép”, đã sống và chiến đấu với quyết tâm sắt đá “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”. Những năm tháng hào hùng, bi tráng và những chiến công oanh liệt của Quân đội ta trên các chiến trường đã cho thấy niềm tin của người lính, trong đó có cá nhân tôi, vào sự lãnh đạo của Đảng chính là sức mạnh vô địch, là động lực to lớn thúc đẩy cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc đi tới mọi thắng lợi và cuối cùng đã kết thúc bằng chiến thắng huy hoàng ngày 30-4-1975, non sông thu về một mối.
Mùa Hè năm 1975, sau khi xuất ngũ, với chiếc áo còn nguyên mùi khói đạn chiến trường, tôi đã ôn thi đại học với kết quả xuất sắc và được cử đi học Đại học Luật tại CHDC Đức. Sau khi tốt nghiệp về nước, tôi được nhà nước Việt Nam cho phép di cư sang Đông Đức. Trường cũ của tôi, trường Đại học Tổng hợp Jena, đã nhận tôi vào làm việc với tư cách là cán bộ nghiên cứu khoa học tại Khoa Khoa học Nhà nước và Pháp quyền. Ở đó, tôi đã có đủ thời gian và cơ hội để nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin, hoàn thiện cho mình những kiến thức lý thuyết về các vấn đề cơ bản như chủ nghĩa xã hội, chiến tranh và hòa bình, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong công cuộc giải phóng dân tộc.
Năm 1991, sau khi Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết (CCCP) và hệ thống XHCN ở Đông Âu tan rã, “bức tường Berlin” sụp đổ, vượt qua hàng nghìn ứng viên, tôi đã xuất sắc là người Việt Nam duy nhất được tuyển dụng làm việc với tư cách là Chuyên viên cao cấp của Sở Di trú Liên bang, một cơ quan trực thuộc Bộ Nội vụ Liên bang Đức. Quãng thời gian gần ba thập kỷ ở nhiệm sở đã giúp tôi hiểu rõ tường tận cơ cấu nhà nước Đức và hoạt động của một thiết chế nhà nước trong xã hội tư bản phương Tây. Những gì mắt thấy tai nghe, những tư liệu hiếm, những bài báo giá trị, chính là vốn liếng quý giá cho tôi những kiến thức cơ bản để đánh giá một cách chính xác, khách quan tình hình ở châu Âu và quê nhà Việt Nam, càng củng cố sâu sắc thêm nhận thức của tôi về Đảng Cộng sản Việt Nam, về vai trò và sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng trong những biến động lớn của tình hình thế giới.
 |
| Cùng cán bộ TP Sông Công thắp hương tại Đồi Phong tướng thuộc ATK Định Hóa (tác giả đứng thứ 2, từ phải qua). |
Tôi đã luôn tự nhắc mình dù ở đâu và làm gì, phải luôn đặt lợi ích của Tổ quốc và dân tộc lên trên hết. Để góp phần mình vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng. Nhiều năm liền, tôi đã hoạt động tích cực với tư cách là người viết báo. Nhiều bài báo của tôi gửi về từ nước Đức đã được Báo Nhân Dân và Báo Quân đội nhân dân công bố. Nhiều bài báo mà tôi là tác giả đã được đăng trong mục Bình luận - Phê phán của Báo Nhân Dân hiện còn được lưu giữ trên các trang báo mạng. Hàng chục bài trong số đó đã được đưa vào các cuốn sách in, gần đây nhất là cuốn “Vì sự thật lịch sử - Vì tình yêu Tổ quốc” do NXB Lao động - Xã hội Hà Nội ấn hành năm 2020. Đặc biệt, bài Bình luận (hai kỳ) với tiêu đề “Tự hào về Đảng, tự hào về sự phát triển của đất nước”, đã mang lại vinh dự cho tôi giải thưởng xuất sắc của Giải Báo chí toàn quốc về xây dựng Đảng (Giải Búa liềm vàng) năm 2020.
Những bài báo và những lần xuất hiện của tôi trên chương trình truyền hình của Đài Truyền hình Việt Nam đã khiến cho giới truyền thông phương Tây và các phần tử chống đối, thiếu thiện chí với Việt Nam điên cuồng, coi tôi là cái gai trước mắt. Một số cơ quan truyền thông phương Tây và các tổ chức, cá nhân chống cộng ở Đức và châu Âu gọi tôi là kẻ “nhị trùng” (ban ngày làm việc cho nhà nước Đức, nhưng ban đêm lại hoạt động cho cộng sản Việt Nam). Và chúng đã không từ bỏ bất cứ thủ đoạn nào để vu khống, xuyên tạc nhằm hạ uy tín cá nhân tôi. Tuy nhiên, chúng đã không “hạ bệ” được tôi. “Một mình giữa bầy sói”, nhưng tôi không đơn độc. Những người Việt chân chính ở trong và ngoài nước là hậu phương vững chắc của tôi, luôn đồng hành cùng tôi, tiếp thêm động lực, ý chí cho tôi, và tôi đã không chùn bước trước hàng loạt tấn công của các thế lực điên cuồng chống cộng nhằm “ám sát cá nhân” một người mà báo Đức gọi là “Người cộng sản trong Cơ quan Di trú Liên bang''.
Bù lại những gian nan căng thẳng tột cùng trong cuộc đấu tranh không kém phần sinh tử nơi xứ người, là niềm hạnh phúc của tôi mỗi lần trở về Tổ quốc. Tôi được đồng đội, quê hương và nhiều cơ quan, tổ chức mở rộng vòng tay chào đón. Nhiều người gọi tôi là “người chiến sĩ kiên cường trên mặt trận không tiếng súng” ở trời Tây. Rất tự hào, lần về thăm quê hương gần đây nhất nhân dịp kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tôi được đơn vị cũ, Trung đoàn 101, Sư đoàn 325, Quân đoàn 12 đón tiếp trân trọng tại Sở Chỉ huy Bắc Giang. Cán bộ của thành phố Sông Công đã đưa tôi đi thăm An toàn khu Định Hóa. Còn tại Vinh, Ban Nội chính tỉnh Nghệ An đã dành cho tôi một cuộc gặp gỡ thân tình, thắm thiết tình đồng chí và đầy xúc động. Tại Cửa Lò, Đoàn đặc nhiệm Phòng, chống tội phạm ma túy số 2 thuộc Bộ tư lệnh Cảnh sát biển cũng tổ chức đón tiếp trọng thị tôi tại trụ sở đơn vị. Tôi thấy mình như đứa con xa xứ lênh đênh được trở về trong vòng tay Tổ quốc - mẹ hiền. Và tôi cực kỳ hạnh phúc khi chứng kiến sự đổi thay ngoạn mục, sự phát triển đến “chóng mặt” của đất nước kể từ ngày tôi xa nước ra đi.
 |
| Buổi đón tiếp tại trụ sở Đoàn đặc nhiệm Phòng, chống tội phạm ma túy số 2 thuộc Bộ tư lệnh Cảnh sát biển (tác giả bên trái). |
Có thể nói, niềm tin vào Đảng chính là ngọn hải đăng tư tưởng soi sáng cho tôi trên từng chặng đường đời.
Cũng trong tháng Tư lịch sử năm 2025, tôi đã đến thắp hương cho các đồng đội đang yên nghỉ tại Nghĩa trang liệt sĩ Long Thành, họ đã ngã xuống ngay trước cửa ngõ Sài Gòn trước ngày toàn thắng. Trước khi rời Việt Nam, tại tp HCM, tôi cũng đã ghé thăm Nghĩa trang liệt sĩ và Nghĩa trang thành phố, thắp hương cho những người con ưu tú của đất nước đã hiến dâng điều quý giá nhất cho quê hương: sự sống của chính họ. Trở lại nước Đức, tôi càng thấm thía một sự thật đã trở thành chân lý: chính Đảng cộng sản Việt Nam với bản lĩnh, ý chí và sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt đã đưa đất nước tới một vị thế đáng tự hào như hôm nay. Điều đó càng gia cố trong tim tôi niềm tự hào về Đảng và niềm tin bền vững sắt son chưa một khắc phai mờ.