Dấu ấn những dòng sông

Tôi tin chắc chắn rằng, không chỉ riêng mình, mà khi nhắc đến Liên Xô và bây giờ là nước Nga, phần lớn trái tim người Việt Nam sẽ có những nhịp đập ấm áp. Trong ký ức tuổi thơ, ngay sát bàn học chung của mấy anh em chúng tôi là mảng tường sinh động hình ảnh, màu sắc được trang trí bằng những trang giấy họa báo Liên Xô ngày nay. Cả vô tình và chính những tiêu đề, nội dung của những bài viết từ họa báo dán trên bức tường đó khắc vào trong óc tôi những cụm từ không thể quên như: Hồng quân Liên Xô; Cách mạng Tháng Mười; nhà nước xã hội chủ nghĩa; xứ sở bạch dương; rừng Taiga… Sau này, lớn dần lên, tôi lại được tiếp cận với các tác phẩm văn học, điện ảnh nên tích lũy thêm, hiểu thêm một chút về Liên Xô. Hồi giữa những năm 70 của thế kỷ trước, sách báo phải chuyền tay nhau đọc, mượn được cũng không phải dễ. May sao, em họ bố tôi là giáo viên nên bà có nhiều tập truyện. Cuốn “Sông Đông êm đềm” tôi đọc hết trong những buổi chăn trâu ở bờ đê của một khúc sông Thao. Khi ấy, tôi chưa đủ năng lực để hình dung cái bờ sông Đông ấy nó thế nào? Nó có giống con sông Hồng chúng tôi hay quẫy đạp những ngày hè hay không? Nhưng thú thật, thấy từ "sông Đông" nó cũng gần gũi như sông Hồng nên thành ra yêu luôn cả những cái tên nhân vật mà dù có phiên âm hay chưa được phiên âm thì ban đầu rất khó đọc như Gregori Melekhov và dễ đọc hơn là Natalia, là Aksinia! Bộ tiểu thuyết vĩ đại của nhà văn Nga Mikhail Aleksandrovich Sholokhov còn cho tôi thấy một phạm vi địa lý rộng lớn trên mặt trận miền Tây nước Nga trong Thế chiến thứ nhất, biết đến Ukraina, Ba Lan, Romania… Trên kệ sách gia đình bây giờ, tôi cũng có bộ tiểu thuyết này, in bìa cứng, giấy rất đẹp của Nhà xuất bản Văn học. Con trai thứ hai của tôi đang học lớp 12 cũng đã bắt đầu đọc cuốn này và cháu cũng mơ ước: Sẽ được đặt chân đến nước Nga! 

Tác giả (bên trái) trước chân Tượng đài Nguyên soái Zhukov. Ảnh: TRUNG KIÊN

Tôi lại thấy một liên tưởng mà qua tìm hiểu, giờ đây mới biết được sông Đông chính là ranh giới địa lý tự nhiên giữa châu Âu và châu Á, đồng thời chia thành phố Rostov xinh đẹp của miền Nam nước Nga thành hai nửa với hai bên bờ sông là những tác phẩm điêu khắc tuyệt vời. Cá nhân tôi, tuổi thơ tắm nước bờ hữu, giờ lại sống bên bờ tả sông Hồng, ngày hai lượt qua cây cầu trăm tuổi Long Biên để đi làm và trở về, càng thích tìm hiểu những dòng sông...

Lần đầu đến nước Nga, tôi cũng kịp biết đến dòng Moscow. Giống như nhiều thủ đô trên thế giới, Moscow cũng là một thành phố ven sông và nơi đây là một “tua” tuyệt vời để dạo bước dọc bờ sông hay xuống thuyền du ngoạn, ngắm nhìn Nhà thờ chính tòa Chúa cứu thế và các công trình kiến trúc, cảnh quan nổi tiếng khác của thủ phủ liên bang này. Đương nhiên, một vài ngày không thể so với mấy năm của nhiều người may mắn được học tập, làm việc tại đất nước vĩ đại, nhưng với tôi, được đặt chân lên Quảng trường Đỏ danh tiếng, được hòa vào dòng người xếp hàng vào lăng viếng Lênin đã là thỏa một nỗi ước ao. So với không gian các công trình kiến trúc xung quanh mới thấy sự khiêm tốn của lăng càng làm tôn thêm lòng thành kính và ngưỡng mộ đối với nhà tư tưởng vĩ đại, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.

Gặp lại những chiếc máy cày CCCP

Ngày bé, tôi theo mẹ, theo bà đi làm đồng nên cũng biết được nỗi vất vả công việc cày, bừa của nhà nông là thế nào. Từ mờ sáng đến lúc nắng rọi đỉnh đầu, trâu, bò bị quất nảy mông cứ ỳ ra mà ruộng chưa “chín”. Đất nước khi ấy (những năm 70 của thế kỷ trước) còn nghèo, con trâu, con bò còn là tài sản chung của hợp tác xã, mãi sau này mới “nuôi khoán” và gia đình nào khá lên thì có trâu, bò là của riêng. Tuy nhiên, các hợp tác xã nông nghiệp của nhiều địa phương đã được Nhà nước đầu tư, trang bị cho những con “trâu sắt”. Đặc điểm dễ nhận thấy của loại máy cày, máy kéo này là hai bánh sau cao, to, màu sơn đỏ rực. Mỗi khi nghe tiếng máy nổ, cả lũ chúng tôi lại kéo ra đường, chạy theo, hò reo và "đánh đoẳng" (đánh đu theo xe). Một kỷ niệm buồn khiến tôi chưa thể quên là anh Thọ, hơn tôi một tuổi, nhà ở xóm dưới, đã bị ngã vào guồng răng của máy cày dẫn đến thiệt mạng. Bố mẹ anh càng thêm đau khổ bởi vì bố anh với bác ruột tôi lại chính là những kỹ sư cơ khí, chuyên sửa chữa các loại động cơ. Nhà anh Thọ có nhiều chiếc máy cày, máy kéo, máy nổ gặp sự cố cần khắc phục. Chúng tôi hay xin loại dầu nhớt làm mát máy (thường gọi là dầu luyn) về để tra vào xích xe đạp.

Một trong những chiếc máy cày được trưng bày ở Quảng trường Đỏ. Ảnh: TRUNG KIÊN

Máy cày là một trong những phát minh của loài người góp phần làm thay đổi về chất của ngành nông nghiệp. Trên thế giới, những chiếc máy cày đầu tiên ra đời từ năm 1850. Sau này, các quốc gia có nền công nghiệp đi trước như Mỹ, Anh, Nga, Ireland phát triển nhanh và mạnh nhất thế giới về lĩnh vực sản xuất máy cày, máy kéo. Với riêng Liên Xô, trong khoảng 10 năm (1932-1941) đã xuất khẩu khoảng 700 nghìn chiếc. Máy kéo, máy cày Liên Xô có công suất được gọi là “đáng kinh ngạc” bởi “tốc độ quá mê, quá đỉnh, quá lầy, động cơ quá mạnh” mà nhắc đến thương hiệu MTZ của Belarus (khi đó thuộc Liên Xô) hay chiếc Traktor máy cày hai cầu Liên Xô thì chỉ có… ngả mũ thán phục.

Tôi không thuộc tuýp người hoài cổ, cũng chẳng hề bảo thủ, nhưng cứ nhắc đến Liên Xô, nước Nga, và cả những nước cộng hòa thuộc Liên Xô trước đây, bao giờ cũng có tình cảm yêu quý. Yêu cái tình, cái chất của con người Liên Xô và yêu tất cả những loại máy cày, xe tăng, xe lửa, xe máy có xuất xứ CCCP này. CCCP-Liên Xô, quốc gia liên bang có nguồn gốc từ Cách mạng Tháng Mười đã tạo ra nhiều thành tựu vĩ đại trên nhiều lĩnh vực quan trọng của thế kỷ 20 và dứt khoát đó là một phần của lịch sử loài người không thể thay đổi. Trước khi đến Nga, tôi được đến Belarus, một nước Cộng hòa thuộc CCCP trước đây và với riêng tôi, tên gọi thủ đô Minsk cũng gắn với một chiếc động cơ không hề xa lạ với người Việt Nam, đó là chiếc xe máy Minsk rất đỗi thân thương được “dịch” ra tiếng Việt là Min “khù khờ”. Min “khù khờ” cần mẫn như chàng lực sĩ sẵn sàng cõng trên lưng cả trăm kilogam hàng hóa leo đèo, vượt dốc mà chẳng có loại xe “tư bản” nào có đủ sức bền và sự dẻo dai bằng. Nằm trên dòng chảy hai con sông Svislach và Nyamiha, thủ đô Minsk cũng vô cùng bình yên và đầy sức quyến rũ!

Trở lại Moscow, trên Quảng trường Đỏ, rời Lăng Lênin, điện Kremlin, chúng tôi thăm Tổ hợp kiến trúc Mộ chiến sĩ vô danh. Tổ hợp chính thức được khánh thành ngày 8-5-1967, trong khu vườn Alexander, bên chân tường thành Kremlin. Ngọn lửa vĩnh cửu nơi đây được thắp sáng ở điểm chính giữa của ngôi sao trên mộ Chiến sĩ vô danh từ đó đến nay và luôn luôn cháy sáng ngày đêm, mặc cho gió mưa, bão tuyết, để nhân dân Nga và thế giới ngàn đời tưởng nhớ những người lính Hồng quân đã anh dũng hy sinh trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại (1941-1945). Rời nơi đây, chúng tôi đến trước tượng đài Nguyên soái Georgy Zhukov, thành kính ngắm ông. Ông sinh ngày 1-12-1896 trong một gia đình nông dân nghèo. Năm 1915, ông gia nhập quân đội Nga và chiến đấu trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Zhukov lần lượt giữ những chức vụ quan trọng trong Hồng quân Liên Xô. Tượng đài Nguyên soái Georgy Zhukov đặt trước Bảo tàng Lịch sử quốc gia Nga, trên Quảng trường Đỏ. Đến đây, du khách sẽ thấy được hình ảnh một vị nguyên soái đầy oai hùng, ngồi trên lưng ngựa, hướng ánh mắt đầy quyết đoán về phía trước.

Không phải ngẫu nhiên mà vị trí của bức tượng lại được đặt trước Bảo tàng Lịch sử quốc gia. Trước đó, đã có nhiều vị trí khác được đưa ra như trên Quảng trường Smolenskaya. Tuy nhiên, quyết định cuối cùng lại là nơi có vị trí như hiện nay để thể hiện một điều chắc chắn: Zhukov chính là một phần không thể tách rời của lịch sử nước Nga vĩ đại. Tượng đài Nguyên soái Zhukov được tạo bởi bàn tay khéo léo của nhà điêu khắc Klukov-một trong những đại diện xuất sắc nổi bật nhất của chủ nghĩa hiện thực cổ điển. Bức tượng đã được dựng trên Quảng trường Đỏ-Manezhnaya nhân dịp kỷ niệm 50 năm Chiến thắng Vệ quốc vĩ đại. Toàn bộ tác phẩm điêu khắc làm bằng đồng, phần đế làm bằng khối đá hoa cương khổng lồ. Tổng khối lượng của bức tượng lên tới 100 tấn. Khi ngắm nhìn bức tượng này, bất kỳ du khách nào cũng sẽ cảm nhận rất rõ vẻ oai hùng, lẫm liệt của vị nguyên soái huyền thoại nước Nga. 

Chỉ qua tượng đài Nguyên soái vài chục mét, dịp ấy, tôi lại được đắm chìm trong mê mệt những… chiếc máy cày! Khu vực trưng bày hình ảnh nông nghiệp nước Nga rất ấn tượng với những vật dụng, sản phẩm cực kỳ gần gũi như lúa mạch, rơm rạ, rau, bí ngô, cà rốt… Trần Nam Trung, một sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam đi cùng đoàn mất khá nhiều thời gian cho những bức ảnh bên các loại máy cày, máy kéo. Từ những chiếc “cổ” nhất phải quay ma-ni-ven đến những chiếc tân tiến giật nổ và đề nổ… cái nào cũng rất ấn tượng! Hai anh em tôi không ai bảo ai, hết trèo lên, lại chạy xuống, lần tay vào từng chiếc bánh xe, ngó nghiêng những chi tiết rất điển hình như cái ống xả, “đôi mắt” nhiều kiểu của những cỗ máy ấy dường như biết chúng tôi quan tâm nên cũng “đáp lại”, có vẻ nhận ra một mối liên hệ nào đó chăng? Thật xúc động, giữa mùa tuyết rơi, rút tay ra khỏi chiếc áo lông vũ đã thấy tê cóng mà lòng thì đầy cảm xúc ấm áp… Một ngày tháng Mười trên Quảng trường Đỏ nhớ mãi không thể quên!

NGÔ ANH THU