Mới đây, khi thực hiện tăng cường các biện pháp quản lý người nhập cảnh để phòng, chống dịch Covid-19, lực lượng chức năng các tỉnh trên địa bàn Tây Nguyên đã phát hiện 273 lao động người nước ngoài không có giấy phép lao động.
Trong đó, nhiều nhất là tỉnh Đắc Nông, có tới 116 trường hợp. Hầu hết số đối tượng người nước ngoài không có giấy phép lao động đều thuộc nhà thầu thi công các dự án nhà máy điện gió.
Trong những năm qua, các tỉnh Tây Nguyên đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển năng lượng tái tạo, với hàng chục dự án nhà máy điện mặt trời, điện gió công suất lớn đã và đang triển khai thi công. Đây chính là lý do để lao động người nước ngoài đến làm việc tại địa bàn này ngày một tăng. Trong khi đó, công tác quản lý của chính quyền, cơ quan chức năng địa phương đối với lao động người nước ngoài còn lỏng lẻo, dẫn tới tình trạng lao động “làm việc chui”, không có giấy phép khá phổ biến.
 |
Ảnh minh họa/ Ảnh: TTXVN |
Pháp luật Việt Nam đã có quy định rất chặt chẽ trong sử dụng lao động người nước ngoài. Tại điểm d, khoản 1, Điều 151, Bộ luật Lao động năm 2019 quy định giấy phép lao động do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam cấp (trừ các trường hợp được miễn theo quy định) là một trong 4 điều kiện để công dân nước ngoài được làm việc tại Việt Nam. Xét theo cơ sở pháp lý, khi phát hiện trường hợp lao động người nước ngoài không có giấy phép lao động, thì cả đơn vị sử dụng lao động và người lao động đều bị xử phạt hành chính, đồng thời lao động người nước ngoài còn bị trục xuất khỏi Việt Nam theo quy định tại Điều 31, Nghị định số 28/2020/NĐ-CP ngày 1-3-2020 của Chính phủ “Quy định xử phạt hành chính lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng”.
Thực tế trên địa bàn Tây Nguyên, khi cơ quan chức năng phát hiện hàng trăm lao động người nước ngoài không có giấy phép lao động thì chính quyền địa phương lại lúng túng trong khâu giải quyết. Thậm chí còn có biểu hiện đùn đẩy trách nhiệm giữa đơn vị sử dụng lao động với cơ quan chức năng địa phương; hoặc xử lý không nghiêm theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng lao động người nước ngoài. Nhìn rộng ra trên phạm vi cả nước, tình trạng lao động người nước ngoài làm việc không có giấy phép lao động cũng xảy ra khá phổ biến ở nhiều địa phương, nhất là ở địa bàn có nhiều dự án đầu tư nước ngoài.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế toàn cầu, việc thu hút đầu tư để phát triển, tiếp nhận lao động người nước ngoài, nhất là chuyên gia, lao động kỹ thuật cao trên những lĩnh vực mới, mà lao động trong nước chưa đáp ứng được là rất cần thiết. Tuy nhiên, không vì mục tiêu phát triển kinh tế mà buông lỏng quản lý đối tượng lao động người nước ngoài; nhất là trong tình hình làn sóng thứ tư của dịch Covid-19 đang diễn biến hết sức phức tạp, việc lao động người nước ngoài vào Việt Nam ngoài việc cách ly tập trung ít nhất 21 ngày còn phải tiếp tục theo dõi sức khỏe tại nhà, nơi lưu trú, hạn chế tiếp xúc trong 7 ngày. Như vậy, tình trạng lao động người nước ngoài “làm việc chui” sẽ rất khó cho công tác quản lý, giám sát của chính quyền nơi lao động làm việc. Và rất có thể đây chính là lỗ hổng để dịch bệnh lây lan, phát tán ra cộng đồng. Vì vậy, hơn lúc nào hết, các địa phương cần siết chặt quản lý người lao động nước ngoài, xử lý nghiêm các trường hợp lao động không phép và nhập cảnh trái phép.
BÌNH ĐỊNH