QĐND OnlineSáng 25-10, Quốc hội nghe trình bày về 3 dự thảo luật và 1 nghị quyết, gồm: Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc Hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; Nghị quyết về chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp; Dự án Luật phòng, chống mua bán người; Dự án Luật Khiếu nại...

Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân có cấu trúc nội dung của một luật sửa đổi, bổ sung nhiều luật với 4 điều, bao gồm: Điều 1 quy định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội; Điều 2 quy định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; Điều 3 quy định về việc đổi tên gọi các tổ chức phụ trách bầu cử; Điều 4 quy định về hiệu lực thi hành.

Cụ thể về các nội dung sửa đổi, bổ sung như sau: sửa đổi quy định về Hội đồng bầu cử ở trung ương; sửa đổi các quy định về thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử; sửa đổi thống nhất quy định về số lượng cử tri tại mỗi khu vực bỏ phiếu; sửa đổi thống nhất quy định về mẫu thẻ cử tri, phiếu bầu; sửa đổi thống nhất về cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản hướng dẫn; về số người ứng cử ở mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội; các luật về bầu cử còn có các quy định khác nhau về thời hạn niêm yết danh sách cử tri, thời hạn giải quyết khiếu nại về danh sách cử tri, mẫu biên bản bầu cử, việc gửi biên bản, phiếu bầu và trình tự, thủ tục trong ngày bỏ phiếu; thời điểm kết thúc nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử.

Nghị quyết về chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp có 3 Điều. Điều 1 quy định về đối tượng được miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp. Điều 2 quy định về đối tượng được giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp. Điều 3 quy định thời hạn miễn, giảm thuế.

Bộ trưởng Bộ tài chính Vũ Văn Ninh, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, trình bày Tờ trình dự thảo Nghị quyết về chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp. Ảnh: TTXVN

Qua nghiên cứu dự thảo và thực tiễn, Uỷ ban Tài chính-Ngân sách của Quốc hội chỉ ra: trên thực tế, việc quản lý và sử dụng đất đai, trong đó có đất nông nghiệp những năm qua còn nhiều hạn chế. Nhiều diện tích đất nông nghiệp được sử dụng vào mục đính phi nông nghiệp, tình trạng hoang hoá, lãng phí tài nguyên đất đai diễn ra ở một số địa phương. Đặc biệt, việc sử dụng đất ở một số nông, lâm trường đang là vấn đề bức xúc trong dư luận do không kiểm soát được quỹ đất, buông lỏng quản lý dẫn đến trục lợi từ đất đai, thất thoát nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Vì vậy, để bảo đảm hiệu quả thực tế của chính sách miễn, giảm thuế, Uỷ ban Tài chính –Ngân sách đề nghị, đi đôi với việc ban hành chính sách, cần rà soát, đánh giá thực trạng sử dụng đất  nông nghiệp, đặc biệt là đất nông trường, lâm trường, đồng thời quy định rõ trong Dự thảo Nghị quyết về việc chỉ thực hiện miễn, giảm thuế cho diện tích đất nông nghiệp được sử dụng đúng mục đích; kiên quyết thu hồi và áp dụng các chế tài xử lý theo quy định của pháp luật đối với diện tích đất bỏ hoang hoá, sử dụng sai mục đích, lãng phí.

Dự án Luật phòng, chống mua bán người là văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành, quy định một cách tập trung, thống nhất những vấn đề có tính nguyên tắc, làm định hướng cho công tác phòng, chống mua bán người. Do vậy, dự thảo Luật có phạm vi điều chỉnh tương đối toàn diện, trong đó tập trung vào 7 nhóm vấn đề chủ yếu trong phòng, chống mua bán người, đó là: 1) phạm vi điều chỉnh; các nguyên tắc, chính sách về phòng, chống mua bán người; quyền, nghĩa vụ của nạn nhân và các hành vi bị cấm; 2) phòng ngừa mua bán người; 3) phát hiện, xử lý hành vi mua bán người, hành vi liên quan đến mua bán người và các hành vi khác vi phạm pháp luật về phòng, chống mua bán người; 4) tiếp nhận, xác minh, bảo vệ nạn nhân; 5) hỗ trợ nạn nhân; 6) trách nhiệm của Chính phủ, các Bộ và địa phương trong phòng, chống mua bán người; 7) hợp tác quốc tế trong phòng, chống mua bán người.

Trên cơ sở phạm vi được xác định như trên, dự thảo Luật Phòng, chống mua bán người được thiết kế gồm 8 chương, 51 Điều.

Dự án Luật khiếu nại gồm 8 chương, 75 điều. Việc xây dựng Dự án luật này được đánh giá soản thảo, nghiên cứu, chuẩn bị nghiêm túc theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Uỷ Ban Pháp luật của Quốc hội qua thảo luận có một số ý kiến cho rằng, việc xây dựng luật này là nhằm góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, vì vậy cần phải coi đây là một nguyên tắc quan trọng và cần được nhấn mạnh trong quan điểm, nguyên tắc xây dựng luật.

Bên cạnh đó, nhiều ý kiến cho rằng, những nội dung được sửa đổi, bổ sung của dự án Luật về cơ bản không khác so với cơ chế giải quyết khiếu nại của pháp luật hiện hành-một cơ chế đã tồn tại trên 30 năm với tính nhân văn là tạo cơ hội cho người bị khiếu nại sửa sai, nhưng trên thực tế lại không có hiệu quả. Vì vậy, không nên tiếp tục duy trì cơ chế giải quyết khiếu nại như hiện nay. Nếu tiếp tục duy trì cơ chế này thì về cơ bản không đáp ứng yêu cầu mà Nghị quyết của Quốc hội số 30/2004/QH11 ngày 15-6-2004 đã nêu: “Chính phủ khẩn trương tiến hành tổng kết toàn diện việc thi hành Luật Khiếu nại tố cáo năm 1998, làm cơ sở cho việc nghiên cứu sửa đổi cơ bản Luật Khiếu nại, tố cáo, xây dựng cơ chế hữu hiệu để giải quyết các khiếu kiện hành chính phù hợp với tình hình thực tế của nước ta và thông lệ quốc tế”. Như vậy, việc ban hành luật này sẽ không có nhiều ý nghĩa cho việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, mà chỉ giải quyết về hình thức, nghĩa là từ nội dung của Luật Khiếu nại, tố cáo tách thành hai đạo luật, một quy định về khiếu nại, giải quyết khiếu nại, một quy định về tố cáo, giải quyết tố cáo. Theo ý kiến này, trường hợp chưa nghiên cứu, xây dựng được một cơ chế giải quyết hiệu lực hơn thì không nên sửa Luật Khiếu nại, tố cáo hiện hành.

Xuân Dũng