Với những sinh viên các khóa học thời sơ tán, chúng tôi có những kỷ niệm riêng với thầy. Ngày thầy lên lớp, chúng tôi đứng ở đầu làng Cao Viên (huyện Thanh Oai, TP Hà Nội bây giờ) để trông ngóng bóng thầy đạp xe gần hai mươi cây số từ nhà ở trung tâm Hà Nội. Rồi chúng tôi tò mò để biết trong chiếc cặp lồng thầy mang ăn trưa, cô Lan-vợ thầy đã khéo chuẩn bị đến thế nào trong những năm tháng thiếu thốn, khó khăn. Và rồi những buổi học trong một ngôi chùa nhỏ, chúng tôi lắng nghe như muốn nuốt từng lời rành rõ, khúc chiết của thầy. Cả lớp gần 90 sinh viên là cán bộ, sĩ quan quân đội và những người vừa tốt nghiệp phổ thông như chúng tôi cùng òa lên khóc khi thầy kể và giảng về cái chết của nữ tướng Tây Sơn Bùi Thị Xuân vì kiểu hành hình voi giày. Sử học là môn khoa học, khoa học là khách quan, chính xác, nhưng lịch sử, nhất là lịch sử dân tộc và đất nước không thể khô khan mà sống động tâm hồn, tình cảm. Thầy Lê, ngay từ những buổi lên lớp đã truyền đến chúng tôi như thế.

Ngay hè năm ấy, nhân đến thăm thầy Lê ở ngôi nhà số 10 phố nhỏ Vọng Đức-mà sau này trở nên thân thuộc cả đời với chúng tôi, thầy đã gợi ý, động viên Nguyễn Việt và tôi bắt tay vào tập nghiên cứu ngay khi vừa chỉ hết năm thứ nhất đại học. Lòng yêu sử, đam mê nghiên cứu sử học trong lớp lớp sinh viên được thầy Lê và các thầy cô Khoa Sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội khơi lên, rèn luyện qua 62 năm kể từ khi trường thành lập. Với riêng nhóm sinh viên tốt nghiệp đi bộ đội chúng tôi khi chuyển từ bộ binh sang hải quân đã có nhiều người ấp ủ viết về lịch sử hải quân. Tác phẩm “Quân thủy Việt Nam trong lịch sử chống ngoại xâm” (NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1983) do Nguyễn Việt chủ biên với sự đóng góp của Vũ Minh Giang và tôi đã ra đời từ đấy với sự động viên, hướng dẫn và bảo vệ của Giáo sư Phan Huy Lê. Với các công trình-bộ sách nghiên cứu của các bạn tôi, Giáo sư Vũ Minh Giang, Tiến sĩ Nguyễn Việt, cũng như nhiều sinh viên, giáo sư, nhà nghiên cứu sử học sau này, dấu ấn của Giáo sư Phan Huy Lê còn sâu đậm hơn thế.

Giáo sư sử học Phan Huy Lê. Ảnh: Phan Thảo.

 

Riêng tôi từ đơn vị về công tác tại Báo Quân đội nhân dân thì được nhận từ thầy Lê sự quan tâm động viên theo cách riêng. Thầy vốn yêu quý tờ báo, đã sẵn sàng viết bài, góp ý và tôi đã có được hạnh phúc nhiều lần mời thầy cộng tác với báo trong những dịp quan trọng. Không được tiếp tục nghiên cứu sử học, song qua thầy Lê, qua các anh em, bạn bè lớp trước, lớp sau, tôi vẫn được biết đến những công việc thầy đã và đang làm. Hầu như ai trong giới sử học và những người quan tâm đến sử học đều chia sẻ với nhau về những công trình, những việc lớn mà thầy Lê là người chủ trì, chủ biên. Không ai không kính phục sức làm việc, giảng dạy, nghiên cứu, viết và thuyết trình, tổ chức của thầy. Sau các tác phẩm nổi danh từ lúc còn trẻ như: “Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập II”, “Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ”, “Tìm hiểu thêm về phong trào khởi nghĩa Tây Sơn”, “Khởi nghĩa Lam Sơn”, rồi “Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc”, thầy Lê đã viết và chủ biên nhiều bộ sử uy tín, sâu sắc, vừa giàu phát hiện, vừa sáng rõ trong phân tích, khái quát khoa học. Đó là những công trình-tác phẩm “Về quá trình dân tộc của lịch sử Việt Nam”, “Lịch sử Thăng Long-Hà Nội”, “Lịch sử Việt Nam”, “Lịch sử Quân sự Việt Nam”… Tiêu biểu trong số đó là công trình “Tìm về cội nguồn” được trao Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ năm 2000 và đặc biệt là công trình “Lịch sử và văn hóa Việt Nam-Tiếp cận bộ phận" được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ năm 2016…

400 công trình nghiên cứu-một khối lượng lao động sáng tạo khổng lồ của Giáo sư Phan Huy Lê. Nhưng không chỉ vậy, chúng tôi còn được biết đến và chứng kiến nhiều việc làm của thầy Lê trong kết nối, gây dựng mối đoàn kết trong giới sử học Việt Nam và giới sử học thế giới. Ngoài những phần việc ở Khoa Sử, giáo sư đã sáng lập và làm chủ nhiệm đầu tiên của Khoa Đông phương học và sáng lập, làm giám đốc đầu tiên của Trung tâm Việt Nam học của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội; giáo sư cũng là người chủ trì kết nối và tổ chức các hội thảo quốc tế về Việt Nam học quy tụ các nhà nghiên cứu uy tín về Việt Nam trên thế giới. Khi đất nước ta tổ chức tái lập Hội Khoa học lịch sử, như một sự mặc nhiên, Giáo sư Phan Huy Lê đã được tín nhiệm bầu làm Chủ tịch. Và thật đáng tự hào khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhận lời mời của Giáo sư Phan Huy Lê làm Chủ tịch danh dự của hội. Cũng như lẽ đương nhiên, một hội khoa học hoàn toàn tự chủ tài chính lại tồn tại vững vàng, tổ chức được rất nhiều hoạt động bổ ích, thiết thực dưới dự chủ trì của vị giáo sư đáng kính, đáng phục cùng với sự phục vụ, cộng tác đắc lực của cán bộ trực thuộc và tập thể rộng lớn, đa dạng của giới sử học cả nước và quốc tế. 

Hôm nay, Giáo sư Phan Huy Lê đã đi về miền của những người hiền. Chúng tôi không còn được thấy phong thái lịch lãm, không còn được nghe giọng nói truyền cảm từ thầy. Thật tiếc thương bao nhiêu khi những ước mơ, những công trình nghiên cứu của ông vẫn còn dang dở. Dang dở nhưng đã có được móng nền vững chắc và cảm hứng trách nhiệm, sáng tạo từ ông. Những cộng sự, những học trò của thầy Lê đã, đang và sẽ tiếp bước, đi tới theo ước vọng và phương hướng nghiên cứu của ông.

Hà Nội, ngày 23-6-2018

Học trò NGUYỄN MẠNH HÙNG