Thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp

Bộ trưởng Phan Văn Giang nhấn mạnh, việc triển khai xây dựng, ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp nhằm thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; khắc phục hạn chế, bất cập trong thực tiễn, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật về tình trạng khẩn cấp, qua đó góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Luật quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban bố, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp; tổ chức thi hành Nghị quyết ban bố, Lệnh công bố tình trạng khẩn cấp; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tình trạng khẩn cấp.

Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trình bày Tờ trình về dự án Luật Tình trạng khẩn cấp. Ảnh: TRỌNG HẢI

Dự thảo Luật được bố trí thành 6 chương, với 42 điều. Trong đó, Chương I, gồm 8 điều (từ Điều 1 đến Điều 8), quy định về phạm vi điều chỉnh; nguyên tắc hoạt động trong tình trạng khẩn cấp; áp dụng Luật Tình trạng khẩn cấp và các luật có liên quan; các hành vi bị nghiêm cấm; hợp tác quốc tế về tình trạng khẩn cấp.

Chương II, gồm 4 điều (từ Điều 9 đến Điều 12) quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban bố, công bố, gia hạn, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; nội dung của Nghị quyết ban bố, Lệnh công bố tình trạng khẩn cấp; chấm dứt hiệu lực của các văn bản pháp luật về tổ chức thi hành Nghị quyết ban bố, Lệnh công bố tình trạng khẩn cấp.

Luật quy định: “Căn cứ diễn biến thảm họa, dịch bệnh, tình hình quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và trên cơ sở đề nghị của các bộ hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Thủ tướng Chính phủ đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban bố tình trạng khẩn cấp, trong trường hợp Ủy ban Thường vụ không thể họp ngay thì Thủ tướng Chính phủ đề nghị Chủ tịch nước công bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương”.

Chương III, gồm 12 điều (từ Điều 13 đến Điều 24), quy định về các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp khi có thảm họa lớn về thiên tai, ô nhiễm môi trường, sự cố bức xạ và hạt nhân, dịch bệnh, trong tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, về quốc phòng; các biện pháp khắc phục hậu quả; huy động nguồn lực, cứu trợ, hỗ trợ; chế độ, chính sách đối với tổ chức, cá nhân tham gia ứng phó, khắc phục tình trạng khẩn cấp.

Nhằm phân cấp, phân quyền và bảo đảm linh hoạt để ứng phó kịp thời với các tình huống trong tình trạng khẩn cấp, Luật quy định: Trường hợp cần thiết, Thủ tướng Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp mà pháp luật hiện hành chưa quy định và báo cáo cơ quan có thẩm quyền của Đảng, Quốc hội trong thời gian gần nhất để phù hợp với quy định tại Luật Tổ chức Chính phủ năm 2025; chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định áp dụng các biện pháp mà pháp luật hiện hành chưa quy định và báo cáo cơ quan có thẩm quyền của Đảng và Thủ tướng Chính phủ trong thời gian sớm nhất để phù hợp với quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025.

Chương IV, gồm 8 điều (từ Điều 25 đến Điều 32), quy định về tổ chức thi hành Nghị quyết ban bố, Lệnh công bố tình trạng khẩn cấp; trách nhiệm thi hành các biện pháp trong tình trạng khẩn cấp; điều động lực lượng vũ trang đến địa bàn ban bố tình trạng khẩn cấp; trang bị và sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ; biện pháp xử lý người bị tạm giữ; lực lượng thi hành trong tình trạng khẩn cấp; áp dụng pháp luật về điều kiện bất khả kháng.

Luật quy định: “Trong trường hợp cần thiết, Thủ tướng Chính phủ đề nghị Chủ tịch nước điều động lực lượng vũ trang đến địa bàn ban bố tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an điều động lực lượng thuộc quyền đến địa bàn ban bố tình trạng khẩn cấp về thảm họa lớn, dịch bệnh để hỗ trợ các lực lượng tại chỗ cứu hộ, khắc phục hậu quả của thảm họa, dịch bệnh hoặc để ổn định, duy trì an ninh và trật tự, an toàn xã hội”.

Hồ sơ dự án luật đã được cơ quan soạn thảo chuẩn bị kỹ lưỡng

Đại diện cơ quan thẩm tra dự án luật, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại của Quốc hội Lê Tấn Tới cho biết, Ủy ban nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật với những căn cứ chính trị, pháp lý, thực tiễn như đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ. Việc ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp là nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về tình trạng khẩn cấp trong phòng, chống, khắc phục thảm họa, sự cố, biện pháp xử lý các tình huống cấp bách, khẩn cấp về quân sự, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; sẵn sàng ứng phó hiệu quả với các thách thức an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống.

  Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại của Quốc hội Lê Tấn Tới trình bày báo cáo thẩm tra dự án luật. Ảnh: TRỌNG HẢI

Hồ sơ dự án luật đã được cơ quan soạn thảo chuẩn bị kỹ lưỡng theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đủ điều kiện trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ chín, Quốc hội khóa XV. Dự thảo luật đã cơ bản bám sát chủ trương, đường lối của Đảng; phù hợp với Hiến pháp, cơ bản bảo đảm tính thống nhất với hệ thống pháp luật, tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên; bảo đảm tính khả thi, đáp ứng các yêu cầu thực tiễn.

Về phạm vi điều chỉnh, luật này không thay thế các luật chuyên ngành đang điều chỉnh các vấn đề liên quan đến tình trạng khẩn cấp. Tuy nhiên, việc xác định tình trạng khẩn cấp trong các luật chuyên ngành chưa đầy đủ, cụ thể, do đó cần nghiên cứu, quy định về xác định tình trạng khẩn cấp, thẩm quyền, biện pháp áp dụng trong tình trạng khẩn cấp trong luật này cho đầy đủ, phù hợp, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật về tình trạng khẩn cấp.

VŨ DUNG

* Mời bạn đọc vào chuyên mục Chính trị xem các tin, bài liên quan.