Tuy nhiên, nếu nhìn về trung và dài hạn, khối lượng công việc cần tiếp tục thực hiện để phát triển kinh tế, đặc biệt là khu vực tư nhân, vẫn còn rất lớn và đầy thách thức. Điều đó đặt ra yêu cầu cấp thiết: Cần hoàn thiện thể chế, đồng thời duy trì động lực và hiệu quả của quá trình cải cách một cách bền vững.

Nền tảng quyết định năng lực cạnh tranh quốc gia

Pháp luật là công cụ quản lý nhà nước ở mọi quốc gia. Thực tiễn nước ta và quốc tế cho thấy thể chế pháp luật nếu chất lượng không tốt sẽ có nguy cơ tạo ra 5 tác động bất lợi đến hoạt động sản xuất kinh doanh, làm suy giảm sức cạnh tranh và sự năng động của doanh nghiệp và nền kinh tế. Đó là gây ra: Chi phí tuân thủ pháp luật lớn, tạo rủi ro, hạn chế sáng tạo, năng động, hạn chế hoặc làm méo mó cạnh tranh và tác động bất lợi đến doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên hoạt động chuyên trách Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội.

Nói rõ 5 tác động trên có thể thấy, chi phí tuân thủ pháp luật bao gồm 5 loại chi phí mà doanh phải bỏ ra trong quá trình thực thi pháp luật: Thời gian và chi phí thực hiện thủ tục hành chính, khoản phí hoặc lệ phí phải nộp, chi phí đầu tư để thay đổi quy trình sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của pháp luật, chi phí cơ hội và chi phí phi chính thức. Chi phí tuân thủ là nguyên nhân giảm năng lực cạnh tranh và hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Về gây thêm rủi ro, rủi ro này rất đa dạng, có thể là việc mất cơ hội kinh doanh, bị xử phạt, gây ra tranh chấp pháp lý. Rủi ro thường phát sinh từ quy định: Không rõ ràng, không tương thích, không phù hợp, chậm trễ thực hiện thủ tục... Rủi ro thể chế có thể làm phá sản doanh nghiệp, phát triển không bền vững, suy giảm niềm tin và tinh thần kinh doanh.

Về hạn chế sáng tạo, năng động của doanh nghiệp và nền kinh tế. Thực tiễn ở nước ta đã cho thấy nhiều quy định cứng nhắc, áp đặt phương thức sản xuất kinh doanh đã tạo rào cản đổi mới, sáng tạo của doanh nghiệp. Ví dụ, quy định về điều kiện kinh doanh thường yêu cầu văn phòng có diện tích tối thiểu, phải có tối thiểu máy móc, công cụ gì, công suất bao nhiêu, phù hợp với quy hoạch...

Về rào cản hoặc làm méo mó cạnh tranh. Quy định phức tạp, khó tuân thủ,...vô hình chính là rào cản gia nhập thị trường, bảo hộ “độc quyền” và làm méo mó cạnh tranh.

Tựu trung lại, những tác động nói trên, từ chi phí tuân thủ, rủi ro và rào cản cạnh tranh sẽ tác động ở mức độ khác nhau giữa các doanh nghiệp với quy mô, lĩnh vực hoạt động khác nhau và tạo nhiều bất lợi hơn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Như vậy, thể chế pháp luật tốt là phải giảm thiểu được tối đa các hạn chế nêu trên. Đồng thời 5 đặc điểm này cũng là 5 nhóm tiêu chí để rà soát quy định pháp luật hiện hành cùng kiểm soát chất lượng quy định mới sẽ ban hành.

Duy trì động lực cải cách thể chế bền vững, hiệu quả

Cải cách thể chế là quá trình thường xuyên, liên tục không có điểm cuối cùng. Thách thức lớn nhất là hầu như tất cả các cải cách trước đây đều xuất phát từ sự quyết liệt của Chính phủ, còn các bộ, ngành rất hiếm khi chủ động đề xuất cải cách, bãi bỏ điều kiện kinh doanh mà mình quản lý. Có những quy định hôm nay còn hợp lý nhưng ngày sau không còn phù hợp thì rất cần bãi bỏ hoặc sửa chữa kịp thời. Nếu Đảng, Quốc hội, Chính phủ không yêu cầu hoặc sao nhãng thì đâu là động lực cải cách thường xuyên, liên tục?

 Quang cảnh tọa đàm “Phát huy tinh thần Cách mạng Tháng Tám xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc” do Báo Quân đội nhân dân tổ chức, ngày 14-8-2025.

Nhìn từ kinh nghiệm ở nhiều quốc gia cho thấy, các quốc gia đã thành lập cơ quan giám sát và thúc đẩy cải cách thể chế - được coi là động lực cải cách. Đơn cử như ở Australia gọi là Ủy ban đặc biệt, Hàn Quốc gọi là Ủy ban Tổng thống về cải cách thể chế, tại Anh là Hội đồng chịu trách nhiệm về thể chế, ở Mỹ là Văn phòng thông tin về cải cách thể chế. Cơ quan cải cách thể chế có các nhiệm vụ cơ bản là kiểm soát chất lượng quy trình soạn thảo; xác định các lĩnh vực trọng tâm để nâng cao chất lượng quy định; nâng cao chất lượng quy định một cách có hệ thống; làm đầu mối, phối hợp trong soạn thảo...

Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, Nghị quyết số 198/2025/QH15 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân; Nghị quyết số 139/NQ-CP của Chính phủ: Ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15  của Quốc hội  đang tạo nhiều hứng khởi và kỳ vọng cho cộng đồng doanh nghiệp trong việc tổ chức triển khai thực hiện các chính sách phát triển kinh tế tư nhân.

Để quá trình thực thi chính sách hiệu quả, trước hết, tiếp tục coi hoàn thiện thể chế là một trụ cột quan trọng nhất trong các đột phá chiến lược hoặc có thể coi là đột phá nền tảng. Đồng thời, các văn kiện, nghị quyết của Đảng cần xem xét để nêu ra yêu cầu cụ thể hơn về nhiệm vụ, giải pháp cải cách, nâng cao chất lượng thể chế thúc đẩy phát triển doanh nghiệp. Giải pháp trọng tâm khác, Chính phủ cần nghiên cứu để có hướng dẫn cụ thể để các bộ ngành, cơ quan thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp về cải cách, nâng cao chất lượng thể chế theo yêu cầu của các nghị quyết gần đây của Đảng, Quốc hội, Chính phủ. Các cơ quan của Quốc hội tập trung thẩm tra các tác động bất lợi đến hoạt động sản xuất kinh doanh-chi phí tuân thủ, rủi ro, hạn chế đổi mới sáng tạo, cạnh tranh không bình đẳng, tác động không cân xứng đến doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đáng chú ý, Chính phủ cần nghiên cứu để xây dựng cơ chế bền vững nhằm duy trì động lực và tính hiệu quả trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp luật giai đoạn 2025-2030, trong đó tham khảo kinh nghiệm về Cơ quan cải cách thể chế.

Cải cách thể chế không chỉ là trách nhiệm pháp lý, mà là nền tảng sống còn của một nền kinh tế năng động và bền vững. Bỏ lỡ cơ hội cải cách chính là tự thu hẹp không gian phát triển của doanh nghiệp và nền kinh tế quốc gia.

PHAN ĐỨC HIẾU, Ủy viên hoạt động chuyên trách Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội

*Mời bạn đọc vào chuyên mục Chính trị xem các tin, bài liên quan.