QĐND - 70 năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong lĩnh vực quyền con người. Những thành tựu đó thể hiện ở việc toàn bộ những vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền của người dân đã được khẳng định và đưa vào luật pháp; thể hiện rõ qua quá trình tổ chức thực hiện các chính sách, hiện thực hóa chủ trương chung của Đảng và Nhà nước. Quyền con người cũng được hiện thực hóa trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trên đây là ý kiến của các đại biểu tại cuộc hội thảo “Thành tựu nhân quyền Việt Nam 70 năm qua” do Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức ngày 9-12 tại Hà Nội.
 |
| Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh tại lễ ký chứng thực Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (sửa đổi), được thông qua ngày 28-11-2013. Hiến pháp năm 2013 có nhiều điều quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Ảnh: TTXVN |
Vai trò “nhạc trưởng”
Để bảo đảm và thúc đẩy quyền con người thì vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước là đặc biệt quan trọng. Đó là vai trò “nhạc trưởng” trong việc hoạch định đường lối, chính sách phát triển. Làm rõ luận điểm này, GS, TS Tạ Ngọc Tấn, Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cho biết, mục tiêu của cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng như ngày nay, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước là tất cả vì con người, vì quyền con người cao cả. Theo GS, TS Tạ Ngọc Tấn, trên cơ sở kế thừa các hiến pháp trước đó, Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam đã dành trọn vẹn 36 điều trong tổng số 120 điều để quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Điều đáng chú ý, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam quy định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Quy định này phù hợp với tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế, xuất phát từ bản chất của quyền con người và bản chất của chế độ XHCN của Việt Nam.
Cũng tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hà Kim Ngọc nêu rõ, với chủ trương nhất quán tôn trọng và bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền và tự do của người dân, việc tăng cường hợp tác quốc tế về quyền con người đã được Việt Nam thực hiện với tinh thần nghiêm túc, cầu thị và cởi mở, đóng góp đáng kể vào việc bảo đảm các quyền và tự do cơ bản cho người dân Việt Nam. Việt Nam đã tham gia hầu hết các điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người và tích cực tham gia thực hiện các cam kết quốc tế khác về quyền con người. Thông qua các hoạt động hợp tác quốc tế về quyền con người, Việt Nam ngày càng thể hiện vai trò và đóng góp tích cực vào việc xây dựng giá trị về quyền con người nói chung trên phạm vi khu vực và quốc tế. Trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng ngày nay, việc tham gia thực hiện nghiêm túc các cam kết, các điều ước quốc tế về quyền con người có ý nghĩa hết sức quan trọng, đóng góp vào việc thực hiện chủ trương nhất quán về bảo đảm và thúc đẩy quyền con người, đồng thời hỗ trợ cho quan hệ của Việt Nam với các quốc gia khác và các tổ chức quốc tế, góp phần nâng cao vị thế và hình ảnh của đất nước trong cộng đồng quốc tế.
Trong khi đó, Phó viện trưởng Viện Khoa học Lao động và xã hội Lưu Quang Tuấn cho rằng, trong 70 năm qua, các chính sách xã hội trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, giáo dục, đào tạo, an sinh xã hội… được thực hiện tại nước ta đã giúp giải quyết các vấn đề xã hội trên cơ sở đề cao nhân tố con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, ưu tiên hỗ trợ người có hoàn cảnh đặc biệt, dễ bị tổn thương. Ông Lưu Quang Tuấn nhấn mạnh, trong giai đoạn 1945-1954, Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách bảo vệ người lao động như ngày làm việc 8 tiếng, chủ muốn sa thải lao động phải báo trước 1 tháng, công nhân được hưởng tiền phụ cấp khi bị thải hồi. Đến giai đoạn 1954-1975, Việt Nam tiếp tục hoàn thiện các chính sách lao động việc làm, an sinh xã hội, bảo vệ tốt hơn quyền của người lao động như: Thực hiện cải cách tiền lương và tăng lương, quy định những công việc nặng nhọc, độc hại không sử dụng lao động nữ, lập quỹ công ích hỗ trợ thường xuyên các đối tượng xã hội. Thời kỳ khó khăn (1975-1986), Việt Nam vẫn thực hiện cải cách tiền lương, đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Đến nay, Việt Nam đã thực hiện 4 quyền cơ bản của trẻ em, phê chuẩn 21 Công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) trong đó có công ước về lao động cưỡng bức, về trả công bình đẳng, chống phân biệt đối xử…
Bảo đảm quyền của các dân tộc ít người
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, gồm 54 dân tộc anh em. Trong đó, dân tộc ít người chiếm tỷ lệ khoảng 14% dân số của cả nước. Việt Nam đã thực hiện rất tốt chính sách dân tộc, bảo vệ, bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số. Theo TS Phan Văn Hùng, Thứ trưởng, Phó chủ nghiệm Ủy ban Dân tộc, những thành tựu trong phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc, thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo, an sinh xã hội đối với đồng bào các dân tộc của Chính phủ Việt Nam, được dư luận trong nước, các tổ chức quốc tế đánh giá cao là những minh chứng, biểu hiện cụ thể việc bảo vệ, bảo đảm quyền của các dân tộc ít người ở Việt Nam.
Thực tế tại Việt Nam cho thấy, người dân tộc ít người được tạo điều kiện tham gia ngày càng nhiều vào hệ thống chính trị, quản lý xã hội, quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, nhiệm kỳ 2011-2016, tỷ lệ đại biểu Quốc hội là người dân tộc ít người chiếm 15,6%, cao hơn tỷ lệ người dân tộc ít người trong tổng dân số nước ta, 48 dân tộc ít người có đại biểu trong Quốc hội. Nhiệm kỳ 2011-2016, đại biểu dân tộc ít người trong Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là 18%, cấp huyện là 20%, cấp xã là 22,5%.
Nhờ đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, bộ mặt vùng dân tộc và miền núi nước ta đã thay đổi rõ rệt, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội vùng dân tộc được cải thiện. Nhà nước cũng có nhiều chính sách, chương trình, dự án về dạy nghề, giải quyết việc làm, tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ đồng bào các dân tộc thiểu số có việc làm, thu nhập và cải thiện đời sống. Trong hơn 10 năm qua, cũng đã có hơn 500 nghìn hộ dân tộc ít người được hỗ trợ nhà ở, 72 nghìn hộ dân tộc ít người được hỗ trợ đất ở, 153 nghìn hộ được hỗ trợ nước sinh hoạt… Văn hóa, truyền thống, tiếng nói, chữ viết, cũng như quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các dân tộc ít người cũng được bảo đảm và phát huy.
ANH THƯ – ĐẶNG LÊ