QĐND - Trong suốt 70 năm hình thành và phát triển, Quốc hội Việt Nam đã thực hiện tốt chức năng lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề lớn của đất nước. Từ sau Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội khóa I (6-1-1946), đến nay Quốc hội Việt Nam sắp trải qua khóa thứ XIII. Thời gian nhiệm kỳ và số lượng đại biểu mỗi khóa như sau:

      Quốc hội khóa I, nhiệm kỳ từ năm 1946 đến 1960, số lượng 403 đại biểu.

      Quốc hội khóa II, nhiệm kỳ từ năm 1960 đến 1964, số lượng 453 đại biểu.

      Quốc hội khóa III, nhiệm kỳ từ năm 1964 đến 1971, số lượng 455 đại biểu.

      Quốc hội khóa IV, nhiệm kỳ từ năm 1971 đến 1975, số lượng 420 đại biểu.

      Quốc hội khóa V, nhiệm kỳ từ năm 1975 đến 1976, số lượng 424 đại biểu.

      Quốc hội khóa VI, nhiệm kỳ từ năm 1976 đến 1981, số lượng 492 đại biểu.

      Quốc hội khóa VII, nhiệm kỳ từ năm 1981 đến 1987, số lượng 496 đại biểu.

      Quốc hội khóa VIII, nhiệm kỳ từ năm 1987 đến 1992, số lượng 496 đại biểu.

      Quốc hội khóa IX, nhiệm kỳ từ năm 1992 đến 1997, số lượng 395 đại biểu.

      Quốc hội khóa X, nhiệm kỳ từ năm 1997 đến 2002, số lượng 450 đại biểu.

      Quốc hội khóa XI, nhiệm kỳ từ năm 2002 đến 2007, số lượng 498 đại biểu.

      Quốc hội khóa XII, nhiệm kỳ từ năm 2007 đến 2011, số lượng 493 đại biểu.

      Quốc hội khóa XIII, nhiệm kỳ từ năm 2011 đến 2016, số lượng 500 đại biểu.

Trong 13 khóa Quốc hội, nhiệm kỳ dài nhất là Quốc hội khóa I, dài tới 14 năm (1946-1960) do hoàn cảnh chiến tranh. Nhiệm kỳ ngắn nhất là Quốc hội khóa V, dài 2 năm (1975-1976) do Tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Hầu hết các kỳ họp Quốc hội được tổ chức tại thủ đô Hà Nội. Riêng Quốc hội khóa I, trong 12 kỳ họp, có duy nhất một kỳ họp không tổ chức tại thủ đô Hà Nội. Đó là Kỳ họp thứ ba, được tổ chức vào năm 1953 tại Chiến khu Việt Bắc (từ ngày 1 đến 4-12-1953).

NHẤT NGÔN (Theo tài liệu của Văn phòng Quốc hội)