QĐND - Khi Thiếu tá Phan Sĩ Tuấn nhận quyết định chuyển công tác vào thành phố Đà Nẵng, cô giáo Lê Thị Hải chia tay lũ học trò thân quen từ miền Bắc để cùng anh vào thành phố này và trở thành giảng viên khoa xã hội nhân văn của Trường Đại học Duy Tân. Lấy chồng bộ đội, chị biết mình cũng sẽ phải yêu luôn cái nghiệp, yêu cả những gian truân và đặc thù công tác của chồng.

Chị kể với tôi về chuyện tình yêu của chị - một cô giáo dạy văn và anh bộ đội đặc công với giọng đầy xúc động. Họ quen nhau tình cờ như cái tình cờ anh vẫn hay hát tặng chị nghe, lời rằng “Trời xe duyên nên khiến anh gặp em”... Ngày ấy, chị là một trong những sinh viên xuất sắc được cử đi du học nước ngoài, một cơ hội không dễ và không dành cho tất cả mọi người. Thế nhưng, chị đã chọn anh, chọn tình yêu duy nhất của đời mình trong sự phản đối của người thân, bè bạn, để đến bây giờ chị vẫn bảo rằng, đó là quyết định đúng đắn nhất trong cuộc đời chị.

Thiếu tá Phan Sĩ Tuấn và vợ trong chuyến du lịch hè năm 2011.

Không có tuần trăng mật, không có những ngày tháng lãng mạn sau kết hôn như những tưởng tượng bay bổng của chị. Sau ngày cưới, anh lên đường nhận nhiệm vụ, rồi gắn bó với những chuyến công tác triền miên. Chị cảm thông và tự “so sánh” mình với những người vợ thời chiến: “Bà chị, mẹ chị đã chờ chồng đến mấy mươi năm trong thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ thì những ngày tháng chờ chồng của chị đâu có đáng gì”. Thế nhưng căn nhà nhỏ, quanh năm vắng bóng người chồng, nỗi trống trải, cộng với sự vất vả của người phụ nữ cõng trên vai ba chức năng: Làm vợ, làm cô giáo và phụng dưỡng cha mẹ hai bên nội ngoại… cũng có lúc làm chị mệt mỏi.

Những lần anh về phép, chị như đứa trẻ khép nép vui vẻ bên chồng. Anh yêu thương vợ hết mực như bù đắp lại phần nào sự thiếu vắng trong những ngày qua. Chị bảo lấy chồng bộ đội dù thiệt thòi đôi chút nhưng hạnh phúc đầy tràn. Cứ nghĩ rằng những thiệt thòi đó của mình sẽ góp phần để anh hoàn thành tốt nhiệm vụ tổ chức, đơn vị giao, cống hiến sức lực tuổi trẻ cho đất nước, vì nhân dân thì thật lớn lao, ý nghĩa biết nhường nào.

Những ngày được nghỉ phép, anh chở chị đi lòng vòng quanh phố như những đôi tình nhân trẻ. Anh dẫn chị đi mua sắm, chọn cho chị từng cái áo, từng tấm vải để chị may áo dài, mua cho chị từng chiếc kẹp tóc… Những đêm chị soạn bài, anh không quên chuẩn bị ly sữa hay cái bánh, anh chăm chút cho chị từng giấc ngủ. Những ngày lễ hay sinh nhật, nếu anh bận công tác thì thế nào anh cũng chuẩn bị sẵn quà ở đâu đó, viết “mật thư” để chị tìm. Vì thế chị cảm giác anh lúc nào cũng ở bên cạnh, là bờ vai vững chắc cho chị. Những ngày mưa gió, ở trong căn nhà vắng anh, mặc nỗi cô đơn và sợ hãi bủa vây, song những lúc anh điện về, chị vẫn gắng tươi cười bảo “không sao cả” để anh yên tâm công tác. Rồi những khi lên lớp, trong bài giảng của chị về hình ảnh anh Bộ đội Cụ Hồ, bao giờ cũng phảng phất hình ảnh của anh…

7 năm rồi hai người vẫn chưa có con. Chị luôn lo sợ căn nhà thiếu vắng trẻ thơ sẽ làm anh buồn lòng… rồi những lời bóng gió bên gia đình chồng khi anh là con trai trưởng, đôi lúc khiến chị mệt mỏi. Anh vẫn nắm tay chị, vẫn ân cần bên chị, ấm áp và bình yên. Anh luôn tạo điều kiện và động viên chị trong công việc. Một niềm vui vừa đến khi chị nhận được quyết định trở thành nghiên cứu sinh. Chị cảm ơn cuộc đời đã ban tặng mình hạnh phúc giản dị mà ấm nồng dẫu bây giờ vẫn chưa trọn vẹn…

Anh như nguồn sức mạnh thổi hồn cho những bài giảng của chị, còn chị là bến bờ yêu thương để anh trở về sau những nhiệm vụ. Bằng tình yêu, cả hai đã thắp lửa và truyền niềm đam mê, hạnh phúc trong công việc và cuộc sống. Màu áo xanh mà anh chọn không chỉ là niềm tin và lý tưởng của anh mà còn là niềm tự hào của chị.

Bài và ảnh: Diệu Ái