(Tiếp theo và hết)
Xã còn nghèo, kinh phí xây cầu không có, còn việc vận động nhân dân đóng góp là việc chẳng dễ dàng, vì đời sống của các hộ dân vẫn còn khó khăn. Đợt ấy gia đình ông Minh đang tập kết vật liệu để chuẩn bị xây dựng một căn nhà, ông bàn bạc với vợ con, tạm hoãn làm nhà lấy tiền đó xây cầu cho dân đỡ khổ. Cả gia đình ai cũng ngạc nhiên, phản đối ý nghĩ ấy. Ông Minh ôn tồn:
- Nhà của mình chưa đến mức dột nát, ráng mấy năm nữa làm cũng được. Mình có nhà cửa khang trang mà để dân làng mỗi khi lũ về cứ nơm nớp lo bị chết đuối thì có sung sướng gì…
Cuối cùng ông đã thuyết phục được vợ con. Ông Minh đến UBND xã đề xuất phương án xây cầu. Sau hơn 2 tháng thi công, cây cầu bê tông kiên cố đầu tiên ở xã Lộc Thành được hoàn thành. Cầu có độ cao gần 4 mét, dài 15 mét. Từ ngày có cây cầu này, khoảng cách giữa ấp K.Liêu
 |
Một góc khu dân cư Tà Thiết hôm nay |
với các ấp, xã trong vùng được nối gần, xe ô tô vào được tận ấp. Dân làng kiến nghị, đặt tên là cầu ông Ba Minh, nhưng ông không đồng ý. Ông bảo cứ gọi cầu Suối Tre là được rồi.
Một năm sau khi khánh thành cầu Suối Tre, ông Minh lại bàn với vợ con hiến gần 1ha đất rẫy để xây dựng khu nghĩa trang tình nghĩa do Hội Cựu chiến binh xã quản lý. Rồi ông lại đứng ra tổ chức xây dựng cổng chào trên đường dẫn vào ấp, mở đầu cho phong trào vận động xây dựng ấp K.Liêu thành ấp văn hóa.
Tâm sự với chúng tôi, ông Minh coi những việc làm ấy như là bổn phận của một người lính trở về từ chiến tranh. Ông nói:
- Ngay từ khi rời quân ngũ, tui đã khắc sâu trong tim tâm nguyện, mình sống được là nhờ đồng đội và nhân dân đùm bọc, nuôi dưỡng. Tôi nguyện sẽ cố gắng tu dưỡng và làm việc để tạ ơn đồng đội và nhân dân.
Hiện nay, mặc dù tuổi đã cao, nhưng ông Minh vẫn tráng kiện và minh mẫn, hằng tuần chạy xe gắn máy vượt cả trăm cây số về thị xã Đồng Xoài và đến các vùng quê căn cứ kháng chiến cũ thăm và giúp đỡ những đồng đội khó khăn. Trái tim nhân hậu, bao dung, luôn coi “Nhân nghĩa tựa thiên kim” đã giúp ông sống thanh thản và có sức khỏe như thế. Trong một lần ông lên tỉnh dự hội nghị Cựu Chiến binh làm kinh tế giỏi, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước Nguyễn Tấn Hưng đã đến ôm chầm lấy ông và thốt lên: “Mỗi năm bác thu nhập từ 20 đến 25 triệu đồng mà dành làm từ thiện được tới 7-8 triệu thì quý quá…”.
Mẹ và quê hương
Cách nhà ông Minh một khoảnh đồi là ngôi nhà của anh thương binh 4/4 Nguyễn Duy Tần. Dù đã rời quân ngũ hơn 20 năm nay, nhưng anh Tần vẫn vẹn nguyên phong cách của một sĩ quan trinh sát Bộ đội Biên phòng. Những năm gần đây, anh Tần được biết đến là một thương binh giàu nghị lực, chiến thắng đói nghèo, vươn lên khá giả. Tuy nhiên những gì anh để lại trong tâm trí của người dân vùng biên giới xa xôi này thì không chỉ có thế...
Năm 1976, Nguyễn Duy Tần rời vùng quê lúa Thái Bình nhập ngũ vào đơn vị Bộ đội Biên phòng, làm nhiệm vụ ở vùng biên giới thuộc tỉnh Sông Bé (cũ). Thời kỳ đó, những chiến sĩ từ các tỉnh phía bắc vào công tác và chiến đấu ở biên giới Tây – Nam gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện nhiệm vụ, nhất là công tác xây dựng địa bàn, vận động quần chúng, do không biết tiếng Khơ-me. Trong quá trình bám dân lập căn cứ đánh giặc, đơn vị của Tần xây dựng được một cơ sở rất vững chắc, đó là nhà mẹ Thị Khớt ở ấp Lộc Bình 1, xã Lộc Thành, huyện Lộc Ninh.
Mẹ Khớt là người dân tộc S’Tiêng, lấy chồng từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Chồng của mẹ là Điểu Thiên, một người S’Tiêng cùng quê. Cưới nhau xong, Điểu Thiên tình nguyện nhập ngũ đi chiến đấu. Chồng vào chiến trường làm nhiệm vụ đặc biệt. Người thiếu phụ vùng sơn cước ở lại tham gia các hoạt động kháng chiến ở địa phương. Rồi cũng từ đó hai người bặt tin nhau. Năm 1973, mẹ Khớt nhận được tin đau xé lòng, chồng bà đã hi sinh ở mặt trận phía Nam. Niềm mong ước được đón chồng trở về và có con thơ bồng bế không thực hiện được, mẹ Khớt nén nỗi đau cho nước mắt chảy vào trong, tham gia các phong trào phụ nữ ở địa phương. Khi cuộc chiến đấu chống quân Pôn-pốt ở biên giới Tây Nam ngày càng khốc liệt, ngôi nhà của mẹ trở thành đầu mối liên lạc bí mật, quan trọng, cung cấp thông tin cho lực lượng trinh sát Biên phòng. Tần được mẹ Khớt nhận làm con nuôi. Các cán bộ, chiến sĩ Biên phòng được mẹ dạy tiếng Khơ-me. Nhờ có mẹ Khớt, lực lượng trinh sát Biên phòng đã nhiều lần thoát khỏi âm mưu gài mìn của địch, nắm chắc thông tin về các toán quân Pôn-pốt tràn sang biên giới để tổ chức đón lõng tiêu diệt và bắt sống. Một trong những kỷ niệm sâu sắc ghi dấu công lao của mẹ Khớt đối với bộ đội Biên phòng là trận tập kích tiêu diệt bọn Pôn-pốt ở khu vực sóc Cần Dực. Qua thông tin từ quần chúng, mẹ Khớt đã thông báo kịp thời cho các trinh sát Biên phòng về thời gian, hướng thọc sâu của địch, giúp đơn vị của Tần tổ chức chiến đấu giành thắng lợi giòn giã.
Sau nhiều lần bị thương, Tần được đơn vị cho về tuyến sau điều trị và đến năm 1984 anh về phục viên với quân hàm trung úy. Tần về xã Lộc Thành từ biệt mẹ Khớt để trở về quê hương
Hiện nay, mặc dù tuổi đã cao, nhưng ông Minh vẫn tráng kiện và minh mẫn, hằng tuần chạy xe gắn máy vượt cả trăm cây số về thị xã Đồng Xoài và đến các vùng quê căn cứ kháng chiến cũ thăm và giúp đỡ những đồng đội khó khăn. Trái tim nhân hậu, bao dung, luôn coi “Nhân nghĩa tựa thiên kim” đã giúp ông sống thanh thản và có sức khỏe như thế. Trong một lần ông lên tỉnh dự hội nghị Cựu Chiến binh làm kinh tế giỏi, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước Nguyễn Tấn Hưng đã đến ôm chầm lấy ông và thốt lên: “Mỗi năm bác thu nhập từ 20 đến 25 triệu đồng mà dành làm từ thiện được tới 7-8 triệu thì quý quá…”. |
Thái Bình phụng dưỡng bố mẹ già và chăm sóc người vợ với đứa con thơ vừa tròn 1 tuổi. Nhưng khi gặp lại mẹ Khớt thì anh không cầm lòng được. Mẹ Khớt đổ bệnh, sức khỏe yếu, nhiều lúc không tự mình thực hiện được các sinh hoạt cá nhân. Căn nhà thiếu vắng bàn tay người đàn ông, đã cô quạnh lại càng trở nên trống trải, xiêu vẹo. Mẹ Khớt không giữ Tần ở lại vì mẹ hiểu rõ trách nhiệm của anh đối với gia đình, song từ đôi mắt mẹ, Tần thấu hiểu một nỗi buồn khó khỏa lấp. Hai ngày ở lại với mẹ trước khi lên tàu ra Bắc, Tần rối bời tâm can. Về quê với bố mẹ, vợ con thì ai sẽ chăm sóc mẹ Khớt? Còn nếu ở lại thì gánh nặng gia đình ở quê ai lo? Anh là con trai trưởng trong gia đình. Người em trai của anh là một chiến sĩ công an, đã anh dũng hy sinh trước ngày anh xuất ngũ. Gia đình, dòng họ rất cần sự trở về của anh. Và anh đã trở về. Những ngày đầu rời quân ngũ về quê, lòng dạ Tần như có tơ vò. Sau nhiều đêm trằn trọc, anh quyết định bàn với bố mẹ và thuyết phục vợ cho anh được trở vào Bình Phước phụng dưỡng mẹ Khớt. Tần nói:
- Ơn nghĩa sinh thành của bố mẹ và phận sự của một người con trai trưởng đối với gia đình, họ mạc con không bao giờ quên. Nhưng con sống được đến hôm nay để trở về đây là nhờ công ơn che chở, nuôi dưỡng của mẹ Khớt và bao đồng đội đã ngã xuống. Bố mẹ cho con vào phụng dưỡng mẹ Khớt đến khi nào mẹ khuất núi thì con sẽ trở về quê hương.
Trước tấm lòng của con trai, bố mẹ anh sau khi suy nghĩ đã cho anh được quyền tự quyết định. Vợ anh xúc động nghẹn ngào, nguyện theo anh vào miền đất lạ để đỡ đần anh lúc trái gió trở trời vết thương tái phát. Nhớ lại những ngày đầy tâm trạng ấy, chị Đặng Thị Mến cười hiền:
- Việc theo anh vào Bình Phước hồi đó là một quyết định rất khó khăn. Tôi hiểu, việc làm của anh ấy xuất phát từ tâm đức, đạo lý. Tôi phải có trách nhiệm chia sẻ với anh ấy.
Vợ chồng anh Tần dựng một căn nhà lá gần nhà mẹ Khớt để tiện chăm sóc, phụng dưỡng. Tần đưa mẹ đi điều trị bệnh tại các bệnh viện. Việc mưu sinh đối với một thương binh và người vợ đang nuôi con nhỏ thật khó khăn. Nhưng với đức tính cần cù, siêng năng, anh chị đã tạo nên những khoảnh vườn trồng tiêu tươi tốt. Như là một cái phúc ở đời, vợ chồng Tần từ hai bàn tay trắng, bới đất, lật cỏ trồng tiêu, làm vườn... dần dần đã có của ăn của để. Sống trong cảnh vui vầy, ấm cúng cùng cháu con, mẹ Khớt dần khỏi bệnh và khỏe hẳn ra. Mẹ sống hạnh phúc đến năm 2005 thì đổ bệnh, qua đời. Vợ chồng anh lo chu đáo việc mai táng, xây mộ và lập bàn thờ để hằng năm cúng giỗ mẹ. Những năm gần đây anh Tần được bà con địa phương tín nhiệm bầu làm cán bộ phụ trách công tác Thương binh – Liệt sĩ và người có công, sau đó phát triển lên cương vị Phó chủ tịch UBND xã. Vừa lo tròn ân nghĩa với người mẹ nuôi, anh vừa cùng một người đồng đội cũ trở lại chiến trường xưa tìm và đưa hài cốt đồng đội về quê hương. Trong vòng 3 năm qua, anh đã trực tiếp tìm và cất bốc, hồi hương 125 hài cốt đồng đội.
Anh Tần mời tôi về nhà riêng. Một căn nhà bình dị nhưng ấm cúng được làm theo kiểu nhà gỗ của đồng bào S’Tiêng nằm giữa vườn tiêu đang kỳ đơm hạt. Cá bắt dưới ao, rau hái ngoài vườn, chị Mến luôn miệng cười tươi khi làm các món ăn theo phong cách chế biến của quê hương Thái Bình đãi khách. Các con của anh chị đều đã lớn, có đứa đang học cao đẳng, có đứa sắp thi đại học. Mảnh đất nơi núi rừng vùng biên giới Tây – Nam này thực sự là một quê hương thứ hai mà các cháu sẽ là đại diện của những chủ nhân tương lai.
- Điều kiện kinh tế đã có đủ, sao anh chị không xây một căn nhà cho “hoành tráng”? – Tôi hỏi.
Anh Tần chống cằm hướng ánh mắt về phương Bắc chậm rãi:
- Những tài sản trên mảnh đất này sẽ dành lại cho các con. Phát triển được thế nào là do khả năng của các cháu. Còn tôi vẫn còn giữ lời hứa ân nghĩa với gia đình, họ mạc ở quê.
Còn nhiều nữa những con người như ông Minh, anh Tần ở vùng biên giới này mà tôi chưa có dịp gặp mặt. Cái ân nghĩa từ tâm khảm và việc làm của họ như những tán cây rừng tỏa bóng phúc cho một vùng đất...
Bài và ảnh: PHAN TÙNG SƠN