QĐND - Chị Xuân tâm sự:

- Quê em ít ruộng lắm, thanh niên đều muốn thoát ly, những người son rỗi phần lớn đi làm công nhân của các công ty may mặc hoặc giày da xuất khẩu. Nhưng đời sống của họ cũng khó khăn, vì phải thuê nhà, và mọi thứ ở các khu công nghiệp đều đắt đỏ, trong khi lương lại quá thấp, vất vả lắm cũng chỉ nuôi được bản thân. Vợ chồng em đã có hai con, không thể đi theo hướng đó được.

- Thế ai mách cho vợ chồng chị biết Công ty Bình Dương cần tuyển công nhân mà vào đây xin việc?

- Quê em cũng đã có những người vào đây trước, lúc đầu họ đi về tìm hiểu nhiều lần, sau biết điều kiện có thể lập nghiệp được mới ở lại, vợ chồng em chỉ đi theo. Chúng em mừng vì vào là có nhà ngay, có công việc ổn định là chăm sóc cao su và thu nhập tương đối khá, bốn triệu đồng mỗi người một tháng. Thế là mỗi tháng nhà em hai người làm được tám triệu, nếu chịu khó làm thêm thì còn thêm vài triệu nữa…

Anh Trần Ngọc Tân, đội 7

Chị Xuân thật vui vẻ khi nói về công việc và thu nhập. Vẫn biết những ngày đầu còn nhiều khó khăn như nhà trẻ xây chưa xong, chợ búa, trường học chưa có. Chị bảo nhà trẻ thì chỉ vài tuần nữa là khánh thành, chợ chưa có thì hằng ngày có chiếc xe ô mang rau quả và các món hàng thiết yếu đến phục vụ tận nơi. Tây Nguyên nói chung hiếm nước, nhưng làng công nhân đội 12 nằm bên cạnh dòng suối Ia mơr, nước trong suốt, không khi nào cạn, ban đêm thanh vắng nghe rõ tiếng nước róc rách. Chị Xuân cũng như những người khác cứ gọi là suối Mơ, tên vừa gọn, vừa đẹp. Mấy chục hộ làng này còn muốn đề nghị Ban giám đốc công ty cho được đặt tên làng mình là làng Suối Mơ, kể ra cũng hay!

Không riêng gì chị Xuân mà những gia đình công nhân vào công ty Bình Dương lập nghiệp đều thấy quyết định của mình là đúng, vì có thể đem lại cuộc sống ấm no cho gia đình, hơn nữa, có thể làm giàu. Nói đến chuyện làm giàu của công nhân công ty, đi đến đâu tôi cũng nghe nhắc đến “ông Tân đội 7”, “Giỏi như ông Tân đội 7”, “Giàu như ông Tân đội 7”. Ông Tân đội 7 là ai mà nổi danh đến thế? Tôi đề nghị Phó giám đốc Đỗ Vinh Quốc cho gặp con người này.

 “Ông Tân đội 7” có họ tên đầy đủ là Trần Ngọc Tân, sinh năm 1970 ở Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Anh chỉ mới vào công ty được bốn năm. Trong câu chuyện, anh tỏ ra tiếc vì mình vào công ty khá muộn, nếu không, cuộc đời đã khác xa thế này. Thanh Hóa là tỉnh đất chật, người đông, theo anh, Hoằng Hóa có mật độ dân đông nhất Thanh Hóa, nên phần lớn thanh niên bỏ làng đi kiếm ăn nơi khác. Bản thân anh từng lăn lộn nhiều năm từ mỏ thiếc ở Sơn Dương, Tuyên Quang đến lò gốm ở Bình Dương. Ở Bình Dương về lại ngược lên Lào Cai, Yên Bái, làm đủ thứ nghề từ thợ nề đến bốc vác…nhưng cuối cùng lại trở về quê vì tay làm không đủ miệng ăn, nói chi chuyện nuôi con cái.  Năm 2007 vào thăm em trai ở công ty, thấy ở đây điều kiện làm ăn thuận lợi, nên xin làm công nhân…

- Nghe tin anh giàu lắm, tôi định vay anh một ít tiền để xây nhà đây!

Nghe tôi đùa, Tân ngượng ngập gãi đầu:

- Công ty giao khoán cho tôi chăm sóc 8ha cao su, lương 5 triệu đồng một tháng. Kể ra số tiền lương đó cũng đủ bảo đảm sinh hoạt hằng ngày. Nhưng thu nhập chính của gia đình tôi là tăng gia sản xuất thêm. Bác biết đấy, trong địa bàn của công ty, giữa những lô cao su, có những khu đất “đầu thừa đuôi thẹo”, những khoảnh đất có độ dộc lớn, công ty không sử dụng, cho phép công nhân khai hoang. Ngoài việc bảo đảm chăm sóc cao su của công ty, hằng ngày tôi tranh thủ thời gian khai hoang, trồng mì (sắn). Diện tích tăng lên dần, do đó thu nhập tăng theo. Năm 2007 thu được 40 triệu đồng, năm 2008 được 160 triệu, năm 2009 được 180 triệu. Đặc biệt năm 2010 vừa qua, một phần do giá cả mì tăng cao nên tôi thu được 346 triệu đồng!

- Số tiền đó anh đủ sức xây dựng một ngôi nhà khang trang trên đất này? Tôi hỏi.

Tân lắc đầu:

- Không đâu bác ạ. Tôi đầu tư mua đất, đất để sản xuất chứ không phải đất ở…

Thì ra người đàn ông trung niên, dong dỏng cao, khuôn mặt cương nghị, màu da rám nắng ngồi đối diện tôi đang có những dự định làm giàu trên vùng đất Chư Prông này. Tôi tin rằng, trong số công nhân của Công ty Bình Dương, không đơn lẻ mình anh có ý nghĩ như thế.

Tác giả bài viết cạnh gốc cây bằng lăng trong nghĩa trang Đức Cơ.

Trò chuyện với Ban giám đốc công ty, tôi thấm thía nỗi trăn trở của các anh, những người lãnh đạo công ty trước trách nhiệm nặng nề của Quân đội, trực tiếp là Binh đoàn 15 giao phó. Một công ty quân đội làm kinh tế, ngoài việc phải cạnh tranh theo quy luật kinh tế thị trường, còn phải gánh vác thêm nhiệm vụ quốc phòng và an sinh xã hội. Làm kinh tế ai chẳng muốn giảm chi, tăng thu để tăng lợi nhuận, đối với các công ty ngoài quân đội ngay ở trên địa bàn này, họ có quyền lựa chọn những công nhân đáp ứng những yêu cầu do công ty đòi hỏi như sức khỏe, giờ giấc và tinh thần làm việc, nếu không đáp ứng thì không tuyển dụng hoặc có quyền sa thải… Nhưng với công ty quân đội Bình Dương cũng như Binh đoàn 15 nói chung, vấn đề hoàn toàn không đơn giản như vậy. Những người lãnh đạo công ty như Giám đốc Trần Văn Khanh và Phó giám đốc Đỗ Vinh Quốc, thời chiến tranh chống Mỹ từng lăn lộn ở vùng này, từng được đồng bào các dân tộc cưu mang nhường cơm sẻ áo. Nước nhà thống nhất, đồng bào còn nghèo khổ, khi được Quân đội giao nhiệm vụ lãnh đạo một công ty làm kinh tế trên vùng đất là chiến trường xưa, nên các anh tự đặt trách nhiệm cho mình rằng, đây cũng là cơ hội để trả ơn đồng bào, cải thiện đời sống cho đồng bào bằng cách tuyển mộ người dân tộc thiểu số làm công nhân của công ty. Một thực tế hiển nhiên đồng bào ở đây ngàn đời vốn xa lạ với khoa học kỹ thuật và tác phong công nghiệp, nên để đào tạo thành một người công nhân lao động chuẩn, công ty phải tốn nhiều thời gian và công sức hơn so với lao động là người Kinh. Và mặc dù có một số công nhân người dân tộc thiểu số tiến bộ nhanh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình được lãnh đạo tin tưởng giao trách nhiệm làm đội phó sản xuất, nhưng vẫn còn nhiều công nhân người dân tộc thiểu số hoàn thành nhiệm vụ của mình không phải là việc dễ dàng. Phương châm “cầm tay chỉ việc” không chỉ là yêu cầu của cán bộ kỹ thuật đối với công nhân là đồng bào dân tộc thiểu số, mà ngay các đồng chí trong Ban giám đốc cũng tranh thủ mọi thời cơ có thể để bày vẽ cách chăm bón cây trồng cho họ.

Địa bàn của Công ty Bình Dương là chiến trường xưa, nơi nhiều người trong Ban giám đốc lưu giữ nhiều kỷ niệm thời chiến trận. Xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho mọi người cũng là một cách đền đáp công ơn những người ngã xuống. Bên cạnh đó, các anh đau đáu muốn làm thêm một cái gì đó cho những người đã khuất. Khi đưa tôi đến thăm bia Chiến thắng Plây-me, Đại tá Quốc nói rằng, anh và Giám đốc Khanh đã nhiều lần đến đây, và lần nào sau khi trở về lòng cũng trăn trở không yên. Các anh suy nghĩ rằng, bia chiến thắng có ghi trong chiến dịch Plây-me, ta đã tiêu diệt 1.700 tên Mỹ và 1.270 ngụy quân, thế thì ta đã hy sinh bao nhiêu, sao không có lấy một dòng tên liệt sĩ? Các anh không chỉ muốn có những bức tường ghi tên liệt sĩ đã ngã xuống cho chiến thắng, mà còn muốn dựng một ngôi chùa nơi đây để khói hương thường nhật…

Bốn năm về trước, giám đốc Trần Văn Khanh kể cho tôi nghe sự gian khổ, hy sinh của đơn vị làm kinh tế đầu tiên trên đất này, ngay sau khi miền Nam mới hoàn toàn giải phóng. Ngót ngàn nữ chiến sĩ từ Bắc vào, phần đông quê ở tỉnh Hà Tây, chịu mọi thiếu thốn, đặc biệt là quần áo và lương thực, nhiều người hy sinh vì bom mìn thời chiến tranh sót lại, hy sinh trong cuộc chiến tranh biên giới tây nam, hy sinh vì sốt rét… Dẫn tôi đến nghĩa trang Đức Cơ, sau khi thắp hương tưởng niệm các liệt sĩ, giám đốc Khanh đưa tôi đến trước bia mộ của Hoàng Thị Hoa, quê Thượng Tiết, Đại Hưng, Mỹ Đức, Hà Tây (cũ). Anh kể tôi nghe về cái chết của Hoa, trước khi tắt thở cô còn muốn được thấy một cành hoa bằng lăng tím, nhưng không may, khi đó là tháng tám, bằng lăng Tây Nguyên không còn hoa nữa… Tôi xúc động trước chi tiết này và viết một bài thơ dài với đầu đề: “Lỗi hẹn bằng lăng tím”. Sau khi bài thơ in báo rồi in sách, Trần Văn Khanh đã làm một việc gần giống như việc Đại tá Giám đốc sở Công an Hà Tĩnh Nguyễn Tiến Tuẫn đã làm với cây bồ kết ở nghĩa trang Đồng Lộc: Anh tìm một cây bằng lăng về trồng gần mộ cô Hoa và trích đoạn bài thơ trên, hai câu trích gắn lên mộ cô Hoa, và một đoạn khắc bia đá đặt dưới gốc bằng lăng. Đến tháng Tư này, cây bằng lăng đã cao chừng năm, sáu mét, lá non tươi, cành tỏa đều đặn về các hướng, bóng râm đã nghiêng che lên các ngôi mộ trắng. Chẳng bao lâu nữa, cây bằng lăng này sẽ trổ hoa như hai cây bồ kết trong nghĩa trang Đồng Lộc đã đơm hoa, kết trái mấy năm nay…

Tôi rời Chư Prông cũng vào tháng Tư, cuối mùa khô, khi rừng khộp phía tây huyện đã bắt đầu nhú lá non, chuẩn bị đón những cơn mưa đầu mùa. Đón cơn mưa đầu mùa còn có hàng vạn cây cao su non ở vườn ươm của các đội sản xuất theo nhau ra những hố đất trồng đã chuẩn bị sẵn. Mưa sẽ cuốn trôi bụi đỏ trên những nẻo đường, gội sạch lá cây, làm sáng lên những mái nhà. Và gặp mưa, dòng Ia mơr, tức suối Mơ, sẽ reo vang tiếng nhạc muôn thuở nhưng chứa đựng thêm nhiều ý nghĩa mới, khi cạnh suối đã có làng công nhân và dọc hai bờ suối toả ra là những cánh rừng cao su như bất tận…

Chư Prông, 4- 2011

Bài và ảnh: Vương Trọng