Anh hùng Nguyễn Hữu Quyền thắp hương cho đồng đội tại nghĩa trang quê nhà

Trung du một chiều ráng đỏ. Hoàng hôn buông xuống, những vệt nắng nhạt cuối ngày còn đọng lại bao giọt óng ánh vàng ươm trên những nấm mộ trắng. Gió hiu hiu thổi nhẹ. Không gian trong nghĩa trang xã Phù Ninh, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ thật yên ả, thanh bình, tĩnh lặng đến nao lòng. Để hai bàn tay chắp trước ngực, anh hùng LLVTND Nguyễn Hữu Quyền đứng nghiêm trang trước đài tưởng niệm và miệng lầm rầm cầu chúc cho những hương hồn đồng đội của ông đã hy sinh được thanh thản nơi chín suối. Ông bộc bạch:

- Tôi cầu mong cho anh linh những người đồng đội thân thiết đã từng nếm mật nằm gai, kề vai sát cánh bên tôi trong những ngày chiến đấu ác liệt trên điểm cao 689 cùng về đây hội ngộ. Những đồng đội của tôi năm ấy, có người đang yên giấc ngàn thu nơi đâu đó trong lòng đất mẹ suốt 39 năm qua, có người vẫn nằm dưới những nấm mộ trắng trong nghĩa trang Khe Sanh (Quảng Trị) với vỏn vẹn một dòng chữ “Liệt sĩ chưa xác định được tên tuổi”.

Nói đến đây, giọng ông chùng xuống. Đôi mắt ông đượm buồn. Những vết rạn chân chim bên hai khóe mắt co lại để cho những giọt nước mắt lặng lẽ ứa ra. Ông lấy chiếc khăn tay mùi xoa chấm vào, những giọt lệ nhạt nhòa như hòa vào những làn khói hương trầm đang bay bảng lảng trên chiếc lư hương đặt phía trước đài tưởng niệm. Ông đứng bần thần khá lâu trong nghĩa trang với tâm trạng mênh mang thăm thẳm và một niềm thương nỗi nhớ đồng đội đến vô hạn. Mặt trời đã lặn, màn đêm đang trùm xuống, bà Nguyễn Thị Xuân-người bạn đời của ông nhắc nhẹ: “Trời tối rồi, về nhà đi ông”.

Trở về quá khứ để tìm hiểu lịch sử trận đánh của ông cùng đồng đội ngày 1-7-1968, ở điểm cao 689 thuộc chiến trường Khe Sanh (Quảng Trị). Dù phải nhịn đói 3 ngày đêm, mưa tầm tã, quân địch lại thường cho pháo kích, giội bom, nhưng ông vẫn động viên chiến sĩ trong tiểu đội kiên trì chờ địch. Khi chúng đổ quân, tiểu đội của ông đánh dồn dập mãnh liệt. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hữu Đoàn sử dụng khẩu tiểu liên và thủ pháo diệt gọn 20 tên Mỹ, cùng tiểu đội diệt 26 tên Mỹ khác và đánh bật 4 đợt phản kích điên cuồng của chúng. Trong trận này, tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn 246 (mặt trận Trị-Thiên) đã tiêu diệt được 287 tên Mỹ, đánh thiệt hại nặng một đại đội khác ở điểm cao 845. Ba ngày sau, đơn vị tổ chức đánh một vị trí đóng quân của địch, Nguyễn Hữu Quyền dẫn tiểu đội bí mật vào sát trận địa địch và riêng anh đã tiêu diệt được 27 tên. Chiến công của anh cùng đồng đội đã góp phần giữ vững trận địa then chốt của ta.

Ông kể:

- Một hình ảnh còn ám ảnh mãi trong ký ức tôi đến tận bây giờ là chiến sĩ Nguyễn Văn Thành, quê ở huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc. Trước khi vào trận đánh tiến công mỏm A của điểm cao 689, Thành gặp tôi (lúc đó tôi là trung đội phó) và bảo: “Tài sản em không có gì ngoài chiếc đồng hồ này. Em nhờ anh cầm giúp để anh biết giờ tác chiến chính xác. Vào trận đánh đêm nay, nếu chẳng may em có “mệnh hệ” gì thì em vẫn còn một chút kỷ vật để lại cho gia đình. Sau này hết chiến tranh, nếu còn sống anh nhớ về quê em gửi lại chiếc đồng hồ này cho bố mẹ em nhé. Vì đó là món quà duy nhất mà bố mẹ tặng em trước lúc lên đường nhập ngũ”. Bởi nghĩ rằng nói đến chuyện sống chết trước khi vào trận đánh là điều nên tránh nên tôi vội gạt đi ngay và không cầm chiếc đồng hồ của Thành. Không ngờ chính cái đêm “định mệnh” ấy, Thành đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Từ đó đến nay, mỗi khi nghĩ đến Thành, tôi tự trách mình đã không giúp Thành thực hiện điều ước nguyện ấy. Giờ đây xương thịt Thành đã hòa tan trong lòng đất mẹ. Chiếc đồng hồ cũng không biết thất lạc, rơi vãi nơi đâu.

Giữ mãi trong tim tấm gương chiến đấu anh dũng của bốn người bạn đồng khóa, ông còn lưu lại trong tâm trí mình về người chiến sĩ-đảng viên trẻ Nguyễn Xuân Khoát ở tiểu đội 8 với những lời dặn dò tâm huyết: “Tôi vào chiến trường không gặp được cán bộ đại đội, tôi nhờ anh em nói với đồng chí chính trị viên phó đại đội đóng hộ tôi đảng phí nhé. Trận đánh thắng lợi, trở về tôi sẽ trả lại cho đồng chí ấy”.

Lặng im giây lát, ông tâm sự:

- Thời chiến tranh gian khổ, ác liệt là thế, nhưng con người có những suy nghĩ, hành động thật đẹp đẽ, ngày chiến sĩ Khoát hy sinh, tôi vẫn chưa là đảng viên. Nhưng câu nói của Khoát đã giúp tôi hiểu rằng: Lẽ sống, trách nhiệm cao cả của người đảng viên luôn phải đặt lên hàng đầu trong mọi điều kiện, hoàn cảnh và từ lúc kết nạp Đảng đến khi nhắm mắt xuôi tay. Và chính chất đảng viên đầy nhiệt huyết của Khoát như nhắc nhở tôi không bao giờ được phép làm trái đạo đức, lương tâm của một người chiến sĩ cách mạng.

Và ông đã sống đúng lương tâm, trách nhiệm của một người đảng viên.

Năm 1991, đang là Trưởng ban dân quân tự vệ của Bộ CHQS tỉnh Vĩnh Phú (cũ), cấp trên có ý định cất nhắc ông lên làm Phó trưởng phòng dân quân tự vệ Quân khu 2 nhưng ông xin phép về hưu vì sức khỏe không được tốt, thỉnh thoảng những lúc trái gió trở trời, ông vẫn bị cơn sốt rét rừng hành hạ. Trở về quê hương, đồng lương trung tá cộng với tiền trợ cấp thương binh hạng 4 không đủ nuôi sống gia đình. Ông làm đủ mọi việc đồng áng, trồng trọt, chăn nuôi như một nông tri điền thực thụ. Dân làng Phù Ninh vẫn còn nhớ mãi hình ảnh một anh trung tá quân đội hằng ngày vẫn đạp chiếc xe cọc cạch đèo hai sọt dưa chuột đi bán ở các chợ khu vực lân cận huyện Phù Ninh và thành phố Việt Trì.

Nghỉ hưu không nghỉ việc, 15 năm qua ông là Ủy viên BCH Hội cựu chiến binh tỉnh Vĩnh Phú (cũ), nay là tỉnh Phú Thọ, Ủy viên BCH Hội CCB huyện Phù Ninh và là Chủ tịch Hội CCB xã Phù Ninh từ năm 1995. Gạt nỗi niềm hoàn cảnh riêng tư sang một bên (ông đang ở với vợ chồng cô con gái nuôi duy nhất, vì ông bà ở hoàn cảnh “hiếm muộn” do bị ảnh hưởng chất độc da cam/đi-ô-xin – TG), ông tận tụy với công việc của Hội từ tỉnh đến xã với tất cả tình cảm, trách nhiệm của mình đối với đồng chí, đồng đội.

Ông tâm sự:

- Tôi sinh ra ở miền quê nghèo, thích “làm bạn” với ruộng vườn, ao cá để được tận hưởng không khí trong lành của nơi thôn dã.

Rồi ông cười khà khà. Mái tóc điểm đầy muối tiêu rung lên nhè nhẹ. Những nếp nhăn như giãn nở hồng hào trên hai khóe mắt, gò má tôi thấy khuôn mặt của anh hùng Nguyễn Hữu Quyền càng ánh lên sự hồn hậu, giản dị.

Bài và ảnh: NGUYỄN VĂN HẢI